1. Đặt vấn đề
Để tồn tại và phát triển, con người cần phải có lương thực, thực phẩm để tiêu dùng, trong đó nhu cầu tiêu thụ lương thực là cơ bản nhất. Với dân số ngày càng tăng trên thế giới (đặc biệt ở các quốc gia Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh,…), nhu cầu về lương thực không ngừng tăng lên, trong khi diện tích canh tác lương thực trên thế giới đang có xu hướng bị thu hẹp. Đây là một thách thức lớn đối với vấn đề an ninh lương thực toàn cầu.
Với quy mô diện tích đất lúa ở nước ta như hiện nay và khả năng áp dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất lúa nhằm hướng tới sản lượng lúa 40 triệu tấn/năm là khả thi. Tuy nhiên, mức sản lượng này chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho khoảng 100 triệu dân. Nếu dân số tiếp tục gia tăng, kèm theo đó diện tích đất trồng lúa giảm thì sẽ có nguy cơ mất cân đối an ninh lương thực.
Để đáp ứng nhu cầu đất đai cho việc phát triển kinh tế, xã hội phải chấp nhận chuyển đổi một diện tích đất trồng lúa nhất định sang mục đích khác như phát triển đô thị, khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên trên thực tế, diện tích đất trồng lúa, đặc biệt là đất trồng lúa nước ở nước ta đã và đang bị giảm mạnh do nhiều địa phương chuyển đổi mục đích sử dụng thiếu tính toán, cân đối quỹ đất trước mắt cũng như lâu dài. Khi đất trồng lúa đã bị chuyển đổi mục đích sử dụng, bị bê tông hóa, đất gần như sẽ không thể quay lại sản xuất nông nghiệp. Do đó để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia thì ngoài việc xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp thì việc bảo đảm quỹ đất trồng lúa nhất định là vấn đề cần phải nghiên cứu , tính toán để duy trì một quay đất hợp lý .
Có nhiều đề xuất cho rằng cần phải cắm mốc giới xác định diện tích đất lúa cần phải bảo vệ nghiêm ngặt. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có cơ sở rõ ràng nào cho việc xác định diện tích đất trồng lúa không được phép chuyển đổi mục đích sử dụng. Để bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu an ninh lương thực với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước thì việc xác định các tiêu chí mang tính khoa học để làm căn cứ đề xuất việc bảo vệ quỹ đất chuyên trồng lúa nước phù hợp với điều kiện của từng vùng miền là hết sức cần thiết. Đây là lý do cần phải nghiên cứu đề tài. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: (1) Cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn trong việc xác định các tiêu chí xác định khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt; (2) Đề xuất các tiêu chí xác định các khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần bảo vệ nghiêm ngặt phù hợp với điều kiện đặc thù từng vùng lãnh thổ, nhằm phục vụ mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
2. Nội dung và kết quả nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu những quan điểm, quy định của pháp luật liên quan đến an ninh lương thực, đất trồng lúa nước, tiêu chí xác định đất chuyên trồng lúa nước;
- Phân tích, đánh giá tổng quan về đất trồng lúa nước trên thế giới;
- Nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng các tiêu chí xác định khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt;
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới trong việc bảo vệ diện tích đất trồng lúa;
- Phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất lúa gạo ở nước ta;
- Đánh giá tình hình sử dụng đất trồng lúa nước, dự báo biến động diện tích đất trồng lúa nước ở nước ta đến năm 2020;
- Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định diện tích đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt;
- Đề xuất các tiêu chí xác định các khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt nhằm bảo đảm an ninh lương thực.
2.2. Kết quả nghiên cứu
a. Cơ sở khoa học để xây dựng các tiêu chí xác định khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt
Trong quy hoạch sử dụng đất hiện nay, việc phân bổ quỹ đất cho mục đích trồng lúa nước nhằm đảm bảo an ninh lương thực vẫn mang tính áp đặt chỉ tiêu về diện tích từ trên xuống (toàn quốc, tỉnh, huyện, xã). Tuy nhiên, trong điều kiện diện tích đất đai có hạn, dân số ngày càng tăng, để cân đối hài hòa quỹ đất cho các mục đích nông nghiệp, phi nông nghiệp thì việc xây dựng các tiêu chí xác định khu vực đất chuyên trồng lúa nước không chỉ dựa trên các yếu tố mang tính kỹ thuật mà cần dựa trên cơ sở các yếu tố mang tính văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị,…
Cơ sở khoa học đầu tiên phải kể đến là lịch sử hình thành nền nông nghiệp lúa nước ở Việt Nam. Nghề trồng lúa nước ở nước ta xuất hiện rất sớm, từ nền văn hóa Hòa Bình. Việt Nam là một trong những trung tâm lúa nước sớm nhất tại các nước Đông Nam Á và vẫn còn lưu lại dấu tích trong các loại lúa dại ở Mường Thanh, di chỉ Xóm Trại... Các bộ lạc trồng lúa đã hiện diện cách nay khoảng 6.000 năm và đã đánh dấu một khúc quanh lịch sử tiến bộ quan trọng trong nền văn minh của dân tộc vì nghề trồng lúa nước đã mang đến cho con người đời sống ổn định hơn. Nền văn minh nông nghiệp châu thổ sông Hồng đã ra đời và phát triển từ thời các vua Hùng, khi châu thổ này được khai thác nghề trồng lúa đã có bước phát triển mới cao hơn hẳn so với trước. Sau khi lan tỏa ra khắp các châu thổ lớn nhỏ của nước ta, đến tận Đồng bằng sông Cửu Long, văn minh nông nghiệp sông Hồng đã trở thành nền văn minh nông nghiệp chung cho cả nước - Văn minh lúa nước Việt Nam.
Sự tập trung dân số ở các vùng châu thổ trồng lúa nước là đặc trưng nổi bật của sự phân bố dân số Việt Nam ngay từ ngày xưa. Xu thế tập trung dân số vào các vùng trồng lúa nước và tiềm năng thâm canh nâng cao năng suất, sản luợng lúa để nuôi được dân số ngày càng đông thêm. Đây cũng là đặc trưng nổi bật của văn minh lúa nước Việt Nam.
Trong nhiều thế kỷ qua, ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam đã trải qua những giai đoạn lịch sử thăng trầm của đất nước. Trước thời Pháp thuộc, nước ta cũng đã là một nước xuất khẩu gạo nổi tiếng, gạo Sài Gòn với những nhà máy gạo lớn ở Chợ Lớn đã được nhiều nước trên thế giới biết đến. Trong hai cuộc kháng chiến với những điều kiện hạn chế, tiếp theo sau hòa bình với cơ chế bao cấp gò bó người nông dân, nên sản xuất lúa gạo và lương thực nói chung không đáp ứng được nhu cầu và thường xuyên phải nhập khẩu.
Từ thời kỳ đổi mới (1989) nước ta đã khôi phục và phát triển truyền thống sản xuất lúa gạo của quảng đại nông dân trên khắp đất nước. Trải qua quá trình phát triển, nông dân Việt Nam đã có nhiều thành tựu trong việc xây dựng ruộng bằng để trồng lúa nước, đã thiết kế nhiều hệ thống tưới tiêu (đắp đê, đào sông, hoàn chỉnh mương máng), đã chọn tạo giống, xây dựng hệ thống cây trồng hợp lý nhằm phòng chống thiên tai, khai thác nguồn lợi tự nhiên. Do đó sản lượng lúa gạo của cả nước và các vùng được tăng đều hàng năm.
Trong những năm gần đây, cây lúa ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong sự phát triển của đất nước. Việt Nam từ một nước đói nghèo đã vươn lên trở thành một nước không những cung cấp đủ gạo cho tiêu dùng nội địa mà còn đứng thứ 2 trên thế giới, sau Thái Lan về xuất khẩu gạo. Có thể nói, cho đến ngày nay kinh nghiệm và kỹ thuật trồng lúa nước của nhân dân ta đã đạt đến một trình độ khá cao, cộng với sự phát triển của công nghệ sinh học và sự đầu tư thích đáng về thủy lợi, giao thông thì nghề trồng lúa nước rõ ràng là một lợi thế lớn của ngành nông nghiệp nước ta.
Từ những phân tích trên cho thấy, bên cạnh việc nâng cao năng suất, thâm canh tăng vụ thì việc bảo vệ diện tích đất trồng lúa nước (đặc biệt là những khu đất “bờ xôi ruộng mật”) có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ nhằm đảm bảo an ninh lương thực mà còn duy trì và phát triển nền văn hóa gắn liền với nghề trồng lúa nước.
Cơ sở khoa học thứ hai phải nói đến là điều kiện tự nhiên (đất đai, khí hậu) của Việt Nam với việc trồng lúa nước. Nếu trên thế giới, diện tích đất trồng lúa chiếm 22% diện tích đất canh tác thì ở Việt Nam tỷ lệ này là 87%, diện tích đất trồng lúa phân bố chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng và hầu hết là đất trồng lúa nước. Sở dĩ Việt Nam là nước sản xuất nhiều lúa gạo là do có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng lúa nước.
Cũng như mọi cây trồng khác, quá trình sinh trưởng - phát triển của cây lúa chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh, điều kiện sinh thái. Cây lúa cần các điều kiện về khí hậu, đất đai, thủy lợi phù hợp để có thể sinh trưởng và phát triển tốt, đó là: Lượng mưa hàng năm từ 2.000 - 2.500 mm, vào thời kỳ tăng trưởng cần một lượng mưa vào khoảng 125 mm trong một tháng; Thời kỳ thu hoạch cần nhiều nắng (ruộng khô càng tốt); Nhiệt độ môi trường thích hợp nhất khoảng 21 - 27°C; Khu vực canh tác phải có độ bằng phẳng, điều này rất cần thiết để duy trì mực nước từ 100 mm đến 150 mm để giúp cho cây lúa tăng trưởng và kết hạt tốt. Chính vì vậy, những khu vực đồng bằng và lưu vực các con sông chảy qua các miền nhiệt đới nhiều mưa sẽ là môi trường thận lợi cho cây lúa nước phát triển. Thời vụ là yếu tố cũng quan trọng không kém đối với cây lúa nước, điều này thúc đẩy việc sáng chế ra lịch tính ngày, tháng, năm và các mùa trong năm của cư dân trồng lúa nước.
Địa hình nước ta có nhiều đồi núi và sông suối, nên lớp phủ thổ nhưỡng Việt Nam phong phú về loại hình, có thể gộp thành hai nhóm lớn là: Nhóm đất bồi tụ và nhóm đất phát triển tại chỗ, trong đó nhóm đất bồi tụ là loại đất thích hợp với cây lúa nước. Những vùng đồng bằng phù sa, những vùng tam giác châu thổ được hình thành do sự bồi đắp của sản phẩm bồi tụ (Đồng bằng Bắc bộ và Đồng bằng sông Cửu Long). Đất bồi tụ thường có địa hình bằng phẳng, đất thường nằm sát mức nước mạch, việc xây dựng và dẫn dắt hệ thống thủy nông tưới tiêu khá thuận lợi, ít bị tác động đến hiện tượng rửa trôi, thoái hóa, vì vậy rất thuận lợi đối với việc phát triển các loại cây ngắn ngày, đặc biệt là cây lương thực và thực phẩm. Đất bồi tụ có thể nói là đất canh tác quý giá có sự đồng nhất giữa độ phì tự nhiên và độ phì thực tế. Diện tích đất bồi tụ ở nước ta chiếm khoảng 28% diện tích tự nhiên. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát triển các loại cây lương thực, đặc biệt là cây lúa nước.
Ngoài yếu tố thuận lợi về đất đai, điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm ở nước ta nói chung thuận lợi đối với nghề trồng lúa. Cây lúa ở nước ta được trồng từ lâu đời, phổ biến từ Bắc vào Nam, từ miền núi xuống đồng bằng. Cây lúa phát triển tốt ở những vùng nhiệt đới ẩm điển hình, vùng nhiệt đới ẩm không điển hình và cả vùng nhiệt đới núi cao nếu điều kiện đất và nước cho phép. Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, tập quán canh tác, sự hình thành mùa vụ và phương thức gieo trồng, nước ta có hai vùng trồng lúa lớn là Đồng bằng bắc Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Với những đặc điểm thích ứng điều kiện tự nhiên như phân tích ở trên cho thấy, nước ta có khả năng duy trì và phát triển nghề trồng lúa, bảo đảm cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu một cách bền vững. Nhiều chuyên gia nông nghiệp của các tổ chức quốc tế công tác tại Việt Nam đã có nhận xét rằng: điều kiện trồng lúa của Việt Nam vào loại thuận lợi nhất trên thế giới.
Vai trò của sản xuất lúa gạo đối với an ninh lương thực có thể coi là cơ sở khoa học thứ ba để xây dựng bộ tiêu chí. Sản xuất lương thực nói riêng và nông nghiệp nói chung là ngành kinh tế xuất hiện sớm nhất trên thế giới và đóng vai trò quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Ngày nay, do sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, biết bao ngành nghề mới liên tiếp ra đời như công nghiệp điện tử, tin học, hàng không, vũ trụ,… Tuy nhiên, chưa có ngành nào dù hiện đại đến đâu có thể thay thế được sản xuất nông nghiệp. Ngay cả khi những nhà du hành vũ trụ sống và làm việc nhiều ngày xa trái đất trong điều kiện trang bị tối tân nhất, thì họ vẫn không thể thiếu nguồn dự trữ lương thực ở dạng chế biến cao cấp.
Tầm quan trọng của lúa gạo với vấn đề an ninh lương thực đã và đang tăng lên, thậm chí với cả những nước mà lúa gạo không phải là lương thực truyền thống. Vấn đề khủng hoảng lương thực luôn được cả thế giới quan tâm, vì nó liên quan trực tiếp đến đời sống của hàng trăm triệu người dân, kéo lùi những thành tựu giảm nghèo trong Chương trình thiên niên kỷ của cộng đồng thế giới, nhất là các nước nghèo đã đạt được sau nhiều năm phấn đấu và cùng với đó là những hệ lụy kèm theo không chỉ trong phạm vi kinh tế mà cả các vấn đề chính trị, an ninh xã hội. Cuộc khủng hoảng lương thực cuối năm 2007 đến đầu năm 2008 với giá lương thực, đặc biệt là giá gạo tăng đột biến làm cho gần 100 triệu người lâm vào cảnh thiếu lương thực và đã gây ra những biến động phức tạp về chính trị, xã hội ở nhiều quốc gia Châu Á, Châu Phi và Trung Mỹ.
Đối với nước ta, trồng lúa nước là một nghề truyền thống từ lâu đời và có vị trí hết sức quan trọng đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho tiêu dùng nội địa, dự trữ và xuất khẩu. Trước năm 1989 nét bao trùm là tình trạng mất an ninh lương thực triền miên do tình hình sản xuất lúa gạo kéo dài trong sự trì trệ và do chính sách “ngăn sông cấm chợ” nên lương thực không được lưu thông giữa các vùng. Trong suốt 26 năm (1961 - 1987) sản lượng thóc bình quân/người/năm không tăng mà lại giảm. Trong thời kỳ này, tuy là nước nông nghiệp lúa gạo truyền thống nhưng Việt Nam vẫn phải nhập khẩu hàng năm trên dưới 1 triệu tấn lương thực, năm nhập khẩu kỷ lục (1970) lên tới 2,3 triệu tấn lương thực (trong đó có 1,3 triệu tấn gạo).
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp đã giải tỏa tình trạng mất an ninh lương thực. Các hộ gia đình được Nhà nước giao đất ổn định, lâu dài để sản xuất nông nghiệp. Từ sau năm 1988, sản xuất lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng không những đảm bảo đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn có dự trữ và xuất khẩu gạo với khối lượng lớn. Diện tích đất trồng lúa liên tục được mở rộng từ 4.109 ha năm 1990 lên 4.468 ha năm 2000. Thế nhưng từ năm 2000 đến nay, diện tích canh tác lúa liên tục bị giảm mạnh (bình quân gần 50.000 ha/năm), cùng với sự biến động về lương thực trên thế giới là những nguy cơ tiềm ẩn đối với an ninh lương thực của nước ta. Do đó, việc làm cấp bách hiện nay là phải bảo vệ đất lúa vì đất lúa là không thể thay thế và có ý nghĩa quyết định đối với an ninh lương thực quốc gia.
Sức ép của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ảnh hưởng tới diện tích đất trồng lúa, đe dọa an ninh lương thực quốc gia là cơ sở khoa học thứ tư. Quá trình đô thị hóa là xu thế tất yếu của bất kỳ quốc gia nào do tiến trình phát triển của sản xuất xã hội. Lịch sử phát triển của hầu hết các quốc gia văn minh đi trước cho thấy, sự tiến bộ của trình độ sản xuất tỷ lệ thuận với quá trình đô thị hóa nông thôn. Vùng nông thôn trở thành các đô thị, người nông dân sản xuất các sản phẩm nông nghiệp trở thành người công nhân sản xuất các sản phẩm công nghiệp. Quá trình đó làm cho một số quốc gia từ chỗ dồi dào lương thực dẫn đến có nguy cơ hoặc thực sự thiếu lương thực.
Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời trung đại với sự hình thành một số đô thị phong kiến, song do nhiều nguyên nhân, quá trình đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư thành thị thấp. Thập kỷ cuối thế kỷ XX mở ra bước phát triển mới của đô thị hóa ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp (năm 2000), Luật Đất đai (năm 2003), Luật Đầu tư (năm 2005); Chính phủ ban hành Nghị định về Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất (năm 1997)… nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện rộng, số lượng lớn, tốc độ nhanh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới và sự cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng ở cả thành thị và nông thôn. Làn sóng đô thị hóa đã lan toả, lôi cuốn và tác động trực tiếp đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Tính đến giữa năm 2008, trên phạm vi cả nước đã có gần 200 khu công nghiệp, phân bố trên địa bàn 52 tỉnh, thành phố với trên 6.000 dự án đầu tư trong, ngoài nước, thu hút hơn 1.000.000 lao động. Phần lớn diện tích các khu công nghiệp, khu chế xuất là đất nông nghiệp và lực lượng chủ yếu bổ sung vào đội ngũ lao động công nghiệp là nông dân. Những năm qua, hệ thống đô thị Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Đến cuối năm 2007, cả nước có trên 700 điểm cư dân đô thị, tăng hơn 40% so với năm 1995. Bên cạnh những đô thị có bề dày lịch sử tiếp tục được mở mang, nâng cấp, đáng chú ý là sự xuất hiện ngày càng nhiều các khu đô thị mới tập trung, trong đó hệ thống các thị trấn, thị tứ ngày càng toả rộng, tạo thành những nét mới ở nông thôn.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chuyển đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp cũng đem lại những hiệu quả nhất định. Giá trị GDP/ha đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp cao gấp 198 lần so với giá trị GDP/ha đất sản xuất nông nghiệp trên phạm vi cả nước vào năm 2007. Tuy nhiên, việc đất lúa liên tục sụt giảm vài năm gần đây đã gây ra những tổn thất về mặt kinh tế khi việc lập quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị trên đất nông nghiệp nói chung và đất lúa nói riêng chưa sát thực tế; phát triển khu đô thị mới, khu vui chơi giải trí, sân golf gần nhau và bố trí trên vùng đất chuyên trồng lúa, đã có hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh, thuận tiện giao thông nhưng khả năng thu hút đầu tư hạn chế. Nhiều diện tích đất lúa gần các khu công nghiệp, khu chế xuất bị ảnh hưởng trực tiếp từ nước thải, khói bui, ánh sáng khiến sâu bệnh gia tăng, năng suất giảm.
Từ những phân tích trên cho thấy, công nghiệp hóa, đô thị hóa đã và đang diễn ra ở nước ta là quá trình có tính quy luật. Quá trình này đã làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng. Việc đất lúa bị chuyển sang mục đích phi nông nghiệp (đất ở, đất giao thông, thủy lợi, khu công nghiệp,…) là xu thế phát triển tất yếu không thể không xảy ra. Tuy nhiên, việc chuyển bao nhiêu, loại đất trồng lúa nào, ở vị trí nào,… thì cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng để vừa đảm bảo nhu cầu đất cho phát triển các ngành, nhưng vẫn phải giữ được đất trồng lúa để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Bên cạnh việc diện tích đất canh tác lúa nước đang và sẽ phải giảm đi để nhường đất cho việc xây dựng các công trình phi nông nghiệp thì diện tích đất trồng lúa nước còn phải đối mặt với nhiều nguy cơ suy giảm số lượng và chất lượng đất đến từ những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu toàn cầu. Đây chính là cơ sở khoa học thứ năm.
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định. Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu được gọi chung là hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nguyên nhân cơ bản của biến đổi khí hậu hiện đại là sự gia tăng quá mức lượng phát thải khí nhà kính (CO2, CH4, N2O, O3, CFC) dẫn đến sự gia tăng nồng độ khí nhà kính trong khí quyển.
Trong các lĩnh vực chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu thì sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng sẽ chịu tác động lớn, bởi đối với sản xuất nông nghiệp, khí hậu là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, trong đó năng lượng bức xạ, nhiệt độ và nước là những yếu tố không thể thiếu trong việc tạo thành năng suất, sản lượng cây trồng. Đặc biệt, sản xuất nông nghiệp của nước ta hiện nay còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Khi nhiệt độ, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt. Sự bất thường của chu kỳ sinh khí hậu nông nghiệp sẽ dẫn tới sự gia tăng dịch bệnh, dịch hại, giảm sút năng suất cây trồng. Sự gia tăng tần suất và cường độ các hiện tượng cực đoan của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, giá rét sẽ ảnh hưởng trực tiếp làm giảm năng suất, sản lượng cây trồng.
Trong khai thác và sử dụng tài nguyên nước, Việt Nam có nhiều yếu tố không bền vững, trong đó có sự suy thoái tài nguyên nước ngày một gia tăng về cả số lượng và chất lượng, do nhu cầu về nước ngày một lớn, sự khai thác và sử dụng chưa theo quy hoạch và sự suy giảm đến mức báo động của rừng đầu nguồn. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, những thay đổi về mưa sẽ dẫn tới những thay đổi về dòng chảy của các con sông và cường độ các trận lũ, tần suất và đặc điểm của hạn hán, lượng nước dưới đất. Theo dự báo, biến đổi khí hậu sẽ làm giảm đáng kể lượng nước trong các con sông ở nhiều vùng trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Khi băng tuyết ở các cực và đỉnh núi cao tan sẽ làm tăng dòng chảy ở các con sông và làm tăng lũ lụt. Khi các băng trên núi cạn, lũ lụt sẽ giảm đi nhưng khi đó các dòng chảy cũng giảm đi, thậm chí cạn kiệt. Nạn thiếu nước sẽ trầm trọng hơn. Điều này rất đặc trưng cho các nước Châu Á với nguồn nước sông ngòi phụ thuộc nhiều vào nước thượng nguồn. Vấn đề còn nghiêm trọng hơn nếu tính tới cả các mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra trong sử dụng chung nguồn nước với các quốc gia phía thượng nguồn.
Những biến đổi theo hướng tiêu cực của khí hậu đang ngày càng tác động xấu đến tài nguyên đất ở Việt Nam. Thiên tai, bão lũ gia tăng sẽ làm tăng hiện tượng sói mòn, rửa trôi, sạt lở bờ sông, bờ biển ảnh hưởng nghiêm trọng tới tài nguyên đất, góp phần làm suy thoái đất đai đặc biệt là đất nông nghiệp. Cũng do tác động của biến đổi khí hậu, một phần đáng kể diện tích trồng trọt (trong đó có diện tích trồng lúa nước) ở vùng Đồng bằng duyên hải, Châu thổ sông Hồng, sông Mê Kông bị ngập mặn do nước biển dâng. Đặc biệt đối với vùng Đồng bằng châu thổ sông Mê Kông, khi nước biển dâng đến mức đáng kể sẽ gây ra ngập mặn trên diện rộng. Theo ước tính, có khoảng 85% dân cư ở đây cần được hỗ trợ về nông nghiệp. Ước tính diện tích ngập mặn và nửa cuối thế kỷ 21 tăng lên đáng kể so với thế kỷ 20. Có tới hơn 1/3 các đồng bằng, là nơi cư trú của 17 triệu dân và là vựa lúa của cả nước bị ngập nếu nước biển dâng khoảng 3 feet trong các thập kỷ tới. Nước biển dâng cũng làm tăng số lượng các cơn bão, tăng lượng nước nhiễm mặn, và các chất ô nhiễm công nghiệp có thể gây ô nhiễm trên các đồng bằng còn lại.
Đối với cây lúa nước thì đất, nước ngọt, khí hậu thời tiết là các yếu tố vô cùng quan trọng cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Biến đổi khí hậu sẽ tác động làm giảm số lượng cũng như chất lượng của tài nguyên đất, nước; làm tăng các hiện tượng thời tiết bất thuận, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất, sản lượng lúa, từ đó có thể đe dọa đến tình hình an ninh lương thực quốc gia. Chính vì vậy, bên cạnh các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu thì việc bảo vệ và giữ ổn định diện tích đất trồng lúa nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và việc bảo tồn văn minh lúa nước ở Việt Nam. Để đảm bảo ổn định và tăng sản lượng lúa gạo sản xuất ra trong điều kiện diện tích đất canh tác lúa nước có xu hướng giảm dần thì việc tìm mọi biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất và khả năng thích ứng của cây lúa nước dưới những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu là vô cùng quan trọng.
Đứng trước thực trạng trên cho thấy, việc tăng cường khả năng áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ trong sản xuất nhằm tăng sản lượng lúa gạo là rất quan trọng. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để xây dựng bộ tiêu chí.
Để tăng sản lượng sản phẩm nông nghiệp, có thể tiến hành theo 2 phương thức quảng canh hoặc thâm canh. Thâm canh đã và đang dần thay thế cho phương thức quảng canh do nhu cầu về lượng nông sản ngày càng tăng trong khi khả năng mở rộng diện tích là rất hạn chế và diện tích đang sản xuất ngày càng bị thu hẹp do nhiều nguyên nhân. Do đó con người phải chuyển sang nâng cao chất lượng canh tác thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới để tăng sản lượng nông sản phẩm trên một đơn vị diện tích. Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, những thành tựu về khoa học công nghệ đã và đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có sản xuất nông nghiệp. Thâm canh hóa trong sản xuất nông nghiệp nói chung và trong ngành trồng trọt nói riêng sẽ đạt hiệu quả cao nếu được ứng dụng nhiều các thành tựu của khoa học công nghệ. Điển hình là cuộc “cách mạng xanh” trong lịch sử đã tạo ra những thành tựu lớn trong sản xuất lương thực của thế giới, đã giúp sản lượng nông nghiệp theo kịp sự tăng trưởng dân số.
Trong hơn 20 năm qua, ngành sản xuất lúa gạo của Việt Nam có nhiều cố gắng và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năng suất và sản lượng lúa đã tăng gấp khoảng 2 lần, hiện nay năng suất bình quân đạt 5,3 tấn/ha một vụ, riêng vụ Đông Xuân, nhiều nơi ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng Bắc bộ đã đạt 7 tấn/ha. Sản xuất lúa gạo phát triển, đã đưa Việt Nam từ một nước nhiều năm thiếu lương thực trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 của thế giới. Trong 22 năm qua, Việt Nam đã xuất khẩu trên 75 triệu tấn gạo, trị giá 23 tỷ USD. Mặc dù vậy, sản xuất lương thực của Việt Nam, trong đó có lúa gạo, vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức, nhất là trong bối cảnh dân số tăng nhanh, đất nông nghiệp ngày càng suy giảm do nhiều nguyên nhân, nguồn nước hạn chế, thiên tai, dịch bệnh xảy ra với tần xuất ngày càng cao và khốc liệt hơn. Đảng và Nhà nước luôn xác định bảo đảm an ninh lương thực quốc gia lâu dài, trong mọi tình huống là một nội dung quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Yêu cầu cấp bách cũng như lâu dài đối với ngành sản xuất lúa gạo của nước ta là phải tăng cường nghiên cứu và ứng dụng những tiến bộ về khoa học công nghệ trong các khâu của quá trình sản xuất nhằm tăng năng suất lúa gạo.
Để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của ngành sản xuất lúa gạo ở nước ta cần có sự quan tâm và đầu tư hơn nữa về lĩnh vực khoa học công nghệ trong sản xuất, đó là: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học kết hợp các phương pháp truyền thống trong chọn tạo giống cây trồng mới, chủ yếu là cây lúa với năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu sâu bệnh và các điều kiện ngoại cảnh, thích nghi với những bất lợi do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu. Nghiên cứu bảo vệ cây trồng như: về côn trùng, bệnh cây, nghiên cứu sự bùng phát sâu hại, biện pháp tăng cường đa dạng sinh học trong thời kỳ biến đổi khí hậu và biện pháp phòng trừ; nghiên cứu và phát triển các chế phẩm sinh học mới từ những vi sinh vật có ích (nấm, virus, vi khuẩn) thay thế dần các loại thuốc hóa học độc hại để quản lý dịch hại.
Nghiên cứu tính chất đất, kỹ thuật canh tác và phân bón cho cây trồng như: nghiên cứu các biện pháp gia tăng nguồn dinh dưỡng dự trữ, chống suy thoái đất nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp bền vững. Ứng dụng các kỹ thuật về cây trồng nhằm chống xói mòn, áp dụng các vi sinh vật có ích trong việc cải tạo đất và làm tăng độ phì cho đất, cải tạo đất mặn nhằm đối phó với tình hình hạn hán và xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu (dùng hóa chất cải tạo đất mặn, rửa mặn). Ngoài ra cần tiến hành nghiên cứu triển khai mô hình cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất, giảm thất thu trong và sau thu hoạch, bảo quản chế biến sản phẩm nông nghiệp; xây dựng các quy trình kỹ thuật canh tác lúa bền vững trên các vùng sinh thái, thu hẹp khoảng cách giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực tế trên các hệ thống sản xuất nông nghiệp khác nhau của từng vùng.
Với sự phát triển không ngừng và nhanh chóng của khoa học công nghệ nói chung và công nghệ, kỹ thuật mới trong sản xuất lúa gạo nói riêng thì khả năng thâm canh tăng năng suất lúa gạo nhằm tăng sản lượng lúa gạo trong điều kiện diện tích canh tác ở nước ta có xu hướng bị thu hẹp do nhiều nguyên nhân là hoàn toàn có tính khả thi.
Từ những phân tích, đánh giá về mặt cơ sở lý luận có thể rút ra những nhận định sau: Việc bảo vệ và duy trì diện tích đất chuyên trồng lúa nước là yêu cầu cấp bách và lâu dài, đó là điều kiện cơ bản để duy trì và phát triển ngành sản xuất lúa gạo nhằm mục tiêu: đảm bảo an ninh lương thực cho những vùng khó khăn trong hiện tại, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cho thế hệ mai sau; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gắn liền với nghề trồng lúa nước; phát huy lợi thế so sánh của nước ta (về điều kiện tự nhiên và kinh nghiệm canh tác); góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong khu vực và thế giới.
Trong điều kiện đất trật người đông như nước ta, để bảo vệ diện tích đất trồng lúa nhưng vẫn phải đảm bảo phân bổ hài hòa, hợp lý diện tích đất đai cho các mục đích sử dụng khác thì cần phải có bộ tiêu chí chung để xác định khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt. Bộ tiêu chí này phải bao gồm nhiều loại tiêu chí khác nhau: về mặt kỹ thuật (gồm các tiêu chí về điều kiện tự nhiên, điều kiện hạ tầng); về mặt kinh tế (gồm các tiêu chí về hiệu quả kinh tế, tác động của thị trường); về mặt văn hóa - xã hội (gồm các tiêu chí liên quan đến tập quán sản xuất, đời sống của người trồng lúa); về mặt môi trường (gồm các tiêu chí liên quan đến vấn đề ô nhiễm môi trường, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, sự cạn kiệt nguồn nước).
b. Bộ tiêu chí xác định các khu vực đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt nói chung và áp dụng cho 7 vùng lãnh thổ nước ta nói riêng
Bộ tiêu chí chung và mức độ ưu tiên về các tiêu chí của 7 vùng lãnh thổ
Tiêu chí | TDMNBB | ĐBBB | BTB | DHNTB | TN | ĐNB | ĐBSCL |
I. Nhóm tiêu chí về điều kiện tự nhiên |
|
|
|
|
|
|
|
1. Địa hình | * | * | * | * | * | * | * |
2. Điều kiện khí hậu | * | * | *** | *** | ** | * | * |
3. Độ phì của đất | * | * | * | * | * | * | * |
4. Quy mô diện tích | * | ** | * | * | * | * | ** |
II. Nhóm tiêu chí về hạ tầng kỹ thuật |
|
|
|
|
|
|
|
5. Điều kiện tưới tiêu | * | *** | * | * | * | ** | ** |
6. Điều kiện giao thông | ** | ** | * | * | * | ** | * |
7. Khả năng áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất lúa gạo | *** | ** | * | * | *** | * | ** |
III. Nhóm tiêu chí về kinh tế, thị trường |
|
|
|
|
|
|
|
8. Hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất trồng lúa | * | * | * | * | * | *** | ** |
9. Khả năng luân chuyển lúa gạo trên thị trường | *** | * | ** | ** | *** | * | * |
IV. Nhóm tiêu chí liên quan đến văn hóa, xã hội |
|
|
|
|
|
|
|
10. Kinh nghiệm lâu năm trong canh tác lúa nước | ** | *** | * | * | * | * | ** |
11. Khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi thu hồi đất trồng lúa | * | *** | ** | ** | * | * | * |
V. Nhóm tiêu chí liên quan đến môi trường |
|
|
|
|
|
|
|
12. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường từ khu vực sản xuất phi nông nghiệp đến đất trồng lúa | * | ** | * | ** | * | *** | ** |
13. Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đến đất trồng lúa | ** | ** | *** | *** | * | * | *** |
14. Tác động từ sự cạn kiệt nguồn nước thượng nguồn đến đất trồng lúa | * | ** | ** | ** | * | * | *** |
Chú thích:
*** Rất quan trọng
** Quan trọng
* Ít quan trọng
3. Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn; đánh giá thực trạng ngành sản xuất lúa gạo ở nước ta; phân tích các nhóm yếu tố khác nhau mang tính khách quan và chủ quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Từ đó tiến hành xây dựng bộ tiêu chí phục vụ việc xác định diện tích đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt.
Bộ tiêu chí được xây dựng gồm 14 tiêu chí chia thành 5 nhóm: điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - thị trường, văn hóa - xã hội và môi trường. Các tiêu chí trong 5 nhóm trên được phân thành hai loại: các tiêu chí cơ bản và các tiêu chí bổ sung. Các tiêu chí cơ bản là các tiêu chí mang tính kỹ thuật quy định những yếu tố tác động trực tiếp đến năng suất, sản lượng lúa nước ở thời điểm hiện tại, đó là các tiêu chí về điều kiện tự nhiên. Các tiêu chí bổ sung là các tiêu chí thuộc bốn nhóm còn lại, các tiêu chí này quy định việc giảm đi hay tăng thêm diện tích đất chuyên trồng lúa nước đã phù hợp với các tiêu chí cơ bản.
Diện tích đất chuyên trồng lúa nước ở nước ta được phân bố khắp chiều dài đất nước từ Bắc vào Nam trên 7 vùng lãnh thổ với các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế - văn hóa, xã hội, môi trường khác nhau. Do đó, việc xác định diện tích đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt ở mỗi vùng phải được dựa trên bộ tiêu chí riêng phù hợp với các điều kiện của vùng đó. Về cơ bản, bộ tiêu chí của 7 vùng bao gồm các nhóm tiêu chí thuộc bộ tiêu chí chung, nhưng mức độ ưu tiên của từng tiêu chí sẽ khác nhau phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng.
Bảy bộ tiêu chí mà đề tài đưa ra là các bộ tiêu chí dạng khung bao quát các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định diện tích đất chuyên trồng lúa nước cần phải bảo vệ nghiêm ngặt. Tuy nhiên để có thể sử dụng bộ tiêu chí này vào thực tế thì cần phải xây dựng các chỉ tiêu cụ thể của từng nhóm tiêu chí. Để xây dựng các chỉ tiêu cụ thể cần phải có những kết quả điều tra, khảo sát trên diện rộng về các yếu tố có ảnh hưởng. Bởi lẽ còn thiếu nhiều các thông tin số liệu cần thiết, mặt khác do nhiều nguyên nhân khác nhau về chủ quan và khách quan mà số liệu thống kê và tài liệu hiện hữu có nhiều khác biệt so với thực tế, đặc biệt là các thông tin về hiện trạng số lượng cũng như chất lượng đất chuyên trồng lúa nước. Do đó để có được bộ tiêu chí cụ thể áp dụng vào thực tế thì cần thiết phải có dự án nghiên cứu tiếp theo.
Ths. Phạm Thị Minh Thủy
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; |
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; |
3. Nguyễn Văn Luật (2009), Cây lúa Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội; |
4. Nguyễn Đình Giao (2001), Cây lương thực, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội; |
5. Oatabê Tađaiô (1988), Con đường lúa gạo, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội; |
6. Nguyễn Điền - Nguyễn Đăng Thân (1984), Đặc điểm địa hình và tính chất cơ lý của đất nông nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội; |
7. Nguyễn Văn Ngưu (2007), Ngành sản xuất lúa Việt Nam nhìn qua lịch sử, văn hoá và kỹ thuật, Nhà xuất bản Nông nghiệp, TP. Hồ Chí Minh; |
8. Lê Huy Ngọ, Nguyễn Thiện Luân, Vũ Tuyên Hoàng…(1997), Nông nghiệp - tài nguyên đất và sử dụng phân bón tại Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ, Tp. Hồ Chí Minh; |
9. Trần Kông Tấu (2009), Tài nguyên đất, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội; Hà Nội; |
10. Mai Văn Quyền (1996), Thâm canh lúa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội; |
11. Trần Văn Đạt (2004), Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam: Từ thời nguyên thuỷ đến hiện đại, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội; |
12. Kết quả kiểm kê đất dai các năm 1990, 1995, 2000, 2005 - Bộ Tài nguyên và Môi trường; |
13. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 1980, 1985, 1990, 1995, 2000, 2005, 2008, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội; |
14. Nguyễn Đức Minh (2004), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đảm bảo an ninh lương thực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm giảm diện tích đất ruộng lúa”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Trung tâm Điều tra quy hoạch đất đai, Hà Nội; |
15. Nghị quyết số 63/NQ-CP của Chính phủ về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, 2009, Hà Nội; |
16. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội; |
Newer articles
Older articles