Để có cơ sở bàn luận về vấn đề này cần thiết phải xem xét từ nhiều góc độ khác nhau hàng loạt vấn đề liên quan như đặc điểm quặng bauxit của Việt Nam, nguồn gốc và điều kiện thành tạo, sự phân bố quặng trên lãnh thổ, công nghệ khai thác và chế biến quặng bauxit, điều kiện cơ sở hạ tầng và kinh tế xã hội vùng dự án v.v… Bài viết dưới đây trình bày kết quả tổng hợp các tài liệu chuyên ngành, kết quả trao đổi và ý kiến của các chuyên gia trong nước về dự án tổ hợp Bauxit Tây Nguyên.
1. Thành tạo và phân bố quặng Bauxit ở Việt Nam: Bauxit hầu như là nguyên liệu độc tôn của công nghiệp luyện nhôm. Từ bauxit có thể thu hồi Alumin (Al2O3), rồi tiếp tục điện phân sẽ thu hồi được nhôm kim loại. Ngoài ra, oxyt nhôm có thể thu hồi từ đá nephelin, alunit, disthen, silimanit, andalusit. Thành phần hóa học và thành phần khoáng vật của bauxit có ý nghĩa rất lớn cho việc đánh giá và lựa chọn công nghệ tuyển luyện thành oxyt nhôm. Bauxit là loại quặng đa thành phần. Những khoáng vật chủ yếu của Bauxit là: Gibsit (hydragylit), diaspor, bơmit. SiO2 là chất lẫn có hại cơ bản trong Bauxit dưới dạng thạch anh, hoặc trong thành phần của các khoáng vật sét và leptochlorit. Tùy theo yêu cầu sử dụng mà xác định hàm lượng cụ thể của các nguyên tố có hại đi kèm. Bauxit là loại quặng, trong đó mođun silic (tỉ lệ Al2O3/SiO2) > 2,6, còn khi mođun silic bằng 1<2,6 thì gọi là Alit.
2. Tài nguyên bauxit ở Việt Nam: Bauxit nguồn gốc trầm tích ở miền Bắc Việt Nam, nằm trên mặt bào mòn của đá vôi cổ, phân bố chủ yếu ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, giống như bauxit ở Vân Nam (Trung Quốc). Khoáng vật nhôm là: diaspor, bơmit. Hàm lượng Al2O3 = 42 - 57%; SiO2= 4-15%; Fe2O3 = 20 -29%. Mỏ bauxit có quy mô nhỏ, trữ lượng ít, phân bố phân tán, không thuận lợi cho khai thác, chế biến tập trung. Bauxit ở miền Nam nguồn gốc phong hóa từ đá phun trào bazan, có nhiều ở các tỉnh: Kon Tum, Đak Nông, Lâm Đồng, Bình Phước, là bauxit laterit, giống như ở các nước Châu Phi. Khoáng vật chủ yếu gồm gibxit, gơtit. Quặng nguyên khai có chất lượng trung bình, chứa nhiều sét. Hàm lượng Al2O3= 35-39%; SiO2= 5-10%; Fe2O3= 25-29%. Trữ lượng tài nguyên quặng bauxit Việt Nam đã được thăm dò là khoảng 2.772 triệu tấn, trong đó bauxit laterit chiếm 2.258 triệu tấn. Dự báo quặng bauxit nguyên khai đạt khoảng 6,75 tỷ tấn. Như vậy, bauxit là một trong 3 loại khoáng sản có trữ lượng lớn, có giá trị cao của Việt Nam.
3. Khai thác tài nguyên cho phát triển: Cho đến nay Việt Nam vẫn còn là nước nông nghiệp. Nông thôn và nông dân chiếm khoảng 70% và phát triển kinh tế xã hội còn phải dựa vào khai thác tài nguyên: đất đai, rừng biển, khoáng sản… Bauxit Tây Nguyên là loại khoáng sản có giá trị thương mại trên thị trường. Việc khai thác các dạng tài nguyên thiên nhiên, trong đó có khai thác bauxit, chế biến và xuất khẩu là việc làm cần thiết cho mục đích phát triển, tạo việc làm cho cộng đồng. Vấn đề là khai thác với quy mô nào và thời điểm nào là thích hợp.
Tại điều 4 của Luật Khoáng sản quy định “Nhà nước có chính sách quản lý, bảo vệ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên khoáng sản”. Theo đó, khai thác khoáng sản phải căn cứ vào nhu cầu về nguyên liệu khoáng của nền kinh tế và một phần cho xuất khẩu. Đáng lo ngại là xu hướng chạy theo lợi nhuận xuất khẩu khoáng sản, mà quên rằng khoáng sản cần được khai thác hợp lý và tiết kiệm, để dành loại tài nguyên không tái tạo này cho sự phát triển bền vững mai sau. Trong thời gian qua, ngành than đã có thành tích lớn là nâng cao sản lượng khai thác từ 10 triệu tấn/năm lên 15-20 triệu tấn/năm và quy hoạch khai thác ở mức cao hơn nữa. Lợi nhuận thu được khi xuất khẩu than với giá 500-600USD/tấn so với giá bán trong nước 300 - 350USD/tấn là đáng kể. Tuy nhiên, sau cao trào khai thác than cho mục tiêu xuất khẩu, thì giờ đây, chính ngành than đã phải ký hợp đồng với Indonesia để nhập khẩu 3,5 triệu tấn than vào năm 2010 nhằm cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện của nước ta. Vậy liệu 1 tấn than xuất khẩu trước đây, giờ mua lại được bao nhiêu than để sử dụng cho các ngành kinh tế ? Từ đó suy ra việc khai thác bauxit Tây Nguyên hiện nay cần được cân nhắc kỹ.
4. Triển khai dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên và các vấn đề liên quan:- Trước hết, từ kinh nghiệm về phát triển công nghiệp sản xuất nhôm trên thế giới cho đến nay có thể thấy một số điều kiện cần để phát triển:
1. Có nguồn điện cung cấp dồi dào cho sản xuất.
2. Có nguồn nước dồi dào
3. Địa điểm khai thác (khai trường và chế biến) có vị trí xa, cách biệt với các khu dân cư và vùng kinh tế, và phải có địa thế thích hợp (thấp, trong thung lũng, cách xa các vị trí đầu nguồn nước, đầu nguồn sông suối...), thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề môi trường phát sinh do quá trình khai thác và chế biến (nước thải và bùn đỏ...).
4. Có khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải
5. Có trữ lượng bauxit dồi dào với hàm lượng cho phép đạt 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina và từ đó sản xuất ra 1 tấn nhôm)
6. Có nguồn lao dộng dồi dào, hoặc được cơ giới hoá cao ở khâu khai thác
Ngoài ra thực tế trong công nghiệp nhôm trên thế giới, đã có một số nước phát triển (Nhật, Tây Âu, Úc...) phải giảm sản lượng hoặc bỏ hẳn ngành sản xuất nhôm do môi trường và năng lượng (đòi hỏi có nguồn điện cung cấp và tiêu tốn quá lớn).
Xét trên thực tế ở Việt Nam, Tây Nguyên chỉ gần như có hai điều kiện cuối đó là trữ lượng bauxit lớn và nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ. Mà đây cũng là hai điều kiện thấp nhất trong nhóm các điều kiện trên. Điều hiển nhiên có thể thấy khi thiếu 4 điều kiện đầu, giá thành sản phẩm alumina hoặc nhôm ở Tây Nguyên sẽ cao và khó khăn thậm chí không khả thi cho việc thực hiện xử lý các vấn đề về môi trường đi kèm. (Vốn đầu tư là rất lớn, vậy còn một câu hỏi đặt ra là nếu chuyển hình thức đầu tư vào phát triển Tây Nguyên theo hướng tiếp cận ngành khác ví dụ như nông nghiệp thì sự khác biệt về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường sẽ như thế nào?).
Có thể thấy việc triển khai 2 dự án Nhân Cơ và Tân Rai chưa thực sự được chuẩn bị, tính toán thấu đáo tất cả các điều kiện kết cấu hạ tầng và chưa tính toán thoả đáng vấn đề đầu ra: nếu giá thành sản phẩm cao, năng lực cạnh tranh thấp thì tất yếu sản phẩm xuất khẩu sẽ phụ thuộc duy nhất vào thị trường lớn và gần, đó là thị trường Trung Quốc, đây là vấn đề rất nguy hiểm đối với kinh tế xuất khẩu. Các vấn đề tính toán về cung cấp nước, điện, giao thông vận tải ...cần thiết cho hai dự án quan trọng này (sau đó Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) dự kiến triển khai thêm 03 nhà máy nữa ở Đak Nong và một số khác ở Gia Lai và Bình Phước...). Các giải pháp thiết kế, thuyết minh của dự án đến nay vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục các nhà khoa học và các bên liên quan.
- Về tài chính, vốn đầu tư và hiệu quả kinh tế
Giá cả và các phân tích tài chính cũng là yếu tố quyết định cần được cân nhắc xem xét chi tiết. Giá nhôm điện phân trên thị trường kim loại thế giới hiện khoảng 1500$/tấn, giá alumin thường bằng 12,5-13% giá nhôm. Nếu chọn tỷ lệ trung bình là 12,75% thì giá alumina sẽ khoảng dưới 200$/tấn. Giá bình quân alumina giai đoạn 1985 – 200 khoảng 238$/tấn (cao nhất đạt 638$ và thấp nhất là 158$). Sau đó cùng với sự tăng cao của giá dầu thế giới, giá nhôm có lúc tăng khá nhanh. Nhưng hiện nay, khi giá dầu thô giảm xuống chỉ còn khoảng 40$/thùng thì giá nhôm cũng đã giảm rất mạnh, từ mức khoảng 3000$/tấn (năm 2008) xuống mức dưới 1500$/tấn hiện nay, do năng lượng điện là tác nhân hàng đầu của giá nhôm (từ 25-40%). Như vậy nếu chỉ xuất nguyên liệu thô là bauxit, giá sẽ rất thấp, dẫn tới việc tiêu tốn tài nguyên mà gần như là lợi bất cập hại, do tốn kém chi phí quá nhiều. Còn nhu cầu đầu tư cũng không nhỏ khi đất nước mới vượt ngưỡng thu nhập GNI hay tổng sản phẩm trong nước GDP bình quân 1000$/người. Theo quy định, dự tính đầu tư hàng chực tỷ USD thì cần có Hội đồng thẩm định quốc gia và phải báo cáo Quốc hội theo quy định về các dự án đầu tư quy mô lớn.
Trong phương án dự kiến của TKV, nhà máy Alumina Bảo Lâm (Lâm Đồng) công suất 0,6 triệu tấn/năm, năm 2011 bắt đầu đi vào hoạt động cho doanh thu dự kiến 3500tỷ đồng, tương đương 200 triệu USD. Tuy nhiên khi tính toán hiệu quả dự án, thì cần phải tính rất nhiều các thông số khác, mà chính lại là phần giá trị gia tăng, là lợi nhuận đã trừ đi các chi phí trực tiếp và gián tiếp khác chứ không phải chỉ đơn thuần là sản lượng. Đó là chưa kể cần tính chi tiết tất cả các chi phí có liên quan như về điện, giao thông làm đường sắt và cảng, các chi phí xây hồ nước sạch và nước thải và đặc biệt là các chi phí về môi trường.
Theo phương án của TKV thì cần đầu tư khoảng 13 tỷ USD để phát triển công nghiệp nhôm. Như vậy với công trình này, có thể tạo thêm việc làm cho 1600 lao động, hay tỷ suất vốn là hơn 14 tỷ đồng/lao động, trong khi mức bình quân của nền kinh tế năm 2006 là 216 triệu đồng/lao động và khu vực doanh nghiệp nhà nước nói chung là 426 tỷ đồng/lao động. Như vậy, tỷ suất vốn đầu tư bauxit đều gấp 10 lần nhiều ngành cùng kỳ như: nông lâm nghiệp 148 triệu đồng, công nghiệp chế biến 107 triệu đồng/lao động và ngay cả các ngành khai thác kim loại khác cũng chỉ là 104 triệu đồng/lao động (Tổng Cục Thống kê - 2008).
Theo các chuyên gia TKV, IRR của hai dự án khoảng 10-11 như vậy bằng lãi suất vay thương mại Việt Nam đồng. Hiện nay đầu tư của hai nhà máy đều tăng lên đáng kể, như vậy IRR của hai dự án chắc chắn sẽ giảm nhiều, dự án khó hoà vốn. Tại thời điểm này đầu tư như vậy là chưa thực sự hợp lý khi nước ta còn chưa tận dụng hết lao động và vốn cũng không phải là thế mạnh của quốc gia. Một số so sánh khác cho thấy nếu trong lĩnh vực công nghiệp nặng, theo TKV dẫn ra cần khoảng hơn 1000$/T công suất alumina, như vậy tương đương làm công suất 1KW điện đang rất khan hiếm hiện nay. Nếu dùng 13 tỷ USD để đầu tư khai thác tiềm năng thủy điện – vốn là thế mạnh của của Tây Nguyên, thì hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường cũng hơn hẳn. Hơn nữa hiệu suất sử dụng các công trình giao thông, điện nước phục vụ sản xuất bauxit đều có nhiều rủi ro, mà giải pháp xử lý lại chưa thuyết phục.
- Vấn đề xã hội và an ninh quốc phòng
Một vấn đề xã hội rất quan trọng đối với các dự án phát triển là tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Theo phương án của TKV, việc khai thác bauxit có thể tạo ra việc làm cho 16 nghìn lao động (bằng khoảng 20% lao động ngành than trong những năm qua), Nhưng đó là lao động kỹ thuật cần được đào tạo. Hiện các tỉnh Tây Nguyên gần như chắc chắn chưa thể đáp ứng yêu cầu này. Trong khi đó việc triển khai dự án chắc chắn sẽ không tránh khỏi phải thu hồi một số lượng ruộng đất của rất nhiều hộ dân vốn sinh sống thuần nông qua nhiều thế hệ và không dễ chuyển đổi qua các sinh kế khác.
Theo con số thống kê mức sống chung của Tây Nguyên có thể tăng nhanh, GDP của vùng tăng nhanh nhưng đời sống của người dân bản địa là người các đồng bào dân tộc thì được cải thiện còn chậm. Khi phân tích vấn đề xã hội vì vậy cần tính đến cả cơ cấu lao động và dân số đã thay đổi quá nhiều, làm lệch cán cân cơ cấu lao động mới đi đến và người địa phương lâu đời. Chênh lệch về phát triển, mức sống và sự khác biệt văn hoá giữa các cộng đồng xã hội có thể sẽ dẫn tới nhiều mâu thuẫn xã hội khác tại vùng Tây Nguyên có tầm quan trọng chiến lược.
Vùng Tây Nguyên là địa bàn cư trú của các dân tộc anh em. Về lịch sử đã có rất nhiều các hoạt động gây rối chia rẽ của rất nhiều thế lực thù địch. Trong hoàn cảnh hiện tại vấn đề tạo sinh kế, tạo nguồn thu nhập ổn định, duy trì các thiết chế văn hoá cộng đồng tốt đẹp của bà con các dân tộc sẽ mang lại sự ổn định lâu dài, và nói chung là tốt hơn cách thức tiến hành công nghiệp hoá ồ ạt, chuyển đổi mục đích sử dụng đất quy mô lớn, đẩy dần người nông dân mà chủ yếu là đồng bào dân tộc vào sâu vùng rừng núi. Việc tiến hành các dự án công nghiệp hoá quy mô lớn vì vậy cần được cân nhắc kỹ lưỡng về hậu quả xã hội, văn hoá và dân tộc; cần huy động sự tham vấn rộng rãi của nhân dân địa phương và chuẩn bị thật kỹ về sinh kế, tư tưởng đời sống văn hoá cho họ. Vấn đề đảm bảo an ninh quốc phòng trên vùng đất quan trọng này là nhiệm vụ trọng yếu và phức tạp. Trong điều kiện Tây Nguyên, cần cân nhắc kỹ việc cho phép lao động nước ngoài quy mô mô lớn vào, xem xét kỹ lưỡng khả năng có thể giám sát hoạt động và đảm bảo an ninh cho họ như để tránh các hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
- Về giao thông vận tải phục vụ phát triển dự án
Hai dự án khai thác bauxit ở Nhân Cơ và Tân Rai đến nay đã triển khai đi vào giai đoạn xây dựng nhưng chưa có phương án cuối cùng cho vấn đề giao thông, bao gồm vận chuyển nguyên liệu và các sản phẩm tạo ra. Theo thiết kế ban đầu của TKV đưa ra khoảng năm 2011 - 2015 sản xuất alumina sẽ cơ bản hoàn thành giai đoạn I. Với công suất 6-8 triệu tấn năm, tổng khối lượng vận tải cả hai chiều dự kiến đạt khoảng 15-16 triệu tấn năm. Tại quyết định số 16/2007/QĐ-Ttg ngày 01-11-2007 của Thủ tướng Chính phủ và dự kiến của TKV mới chỉ nêu ý tưởng là làm đường sắt để phục vụ như cầu vận tải của dự án. Tuy nhiên với độ cao địa hình lớn, cự ly ngắn, địa hình phức tạp thì giải pháp xây dựng đường sắt hầu như không khả thi: theo kế hoạch của TKV, đường sắt Đak Nông nối cảng biển ở mũi Kê Gà sẽ là đường đôi, khổ rộng 1435mm với vốn đầu tư: đường sắt 20.800 tỷ, cảng biển 9.100 tỷ VNĐ. Đường bộ từ Gia Nghĩa theo tuyến QL14, QL28 đến Phan Thiết dài 189km đi qua nhiều đèo, dốc. Chiều dài đường sắt theo tuyến này chắc chắn sẽ lớn hơn, khoảng 270km. Nếu làm đường sắt thì phải khắc phục yếu tố địa hình, đặc biệt là trên cung đường từ rìa tây đồng bằng Phan Thiết với cao trình khoảng 20m, vượt qua sườn đông của dải Trường Sơn nam, đến cao nguyên Di Linh-Bảo Lộc có cao trình 700-800m. Đây là công việc khá phức tạp, vì để đảm bảo an toàn chạy tàu, tuyến đường phải vòng vèo theo các sườn núi, xuyên hầm, qua cầu cạn, sao cho vừa đạt độ dốc cần thiết, vừa đảm bảo bán kính cong tối thiểu để đạt tốc độ cần thiết. Theo các chuyên gia đường sắt của của Công ty tư vấn TEDI, đối với đường 1435mm, nếu sử dụng đầu máy DIESEL loại mạnh nhất hiện nay công suất 1.800CV, để đạt tốc độ 60-70km, thì độ dốc tối đa của đường là 1,2%, bán kính cong tối thiểu phải là 200m. Làm tuyến đường sắt như vậy, cùng với xây cảng biển đòi hỏi kinh phí đầu tư rất lớn, kết quả làm tăng cao đáng kể giá thành sản xuất Alumin, lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất Alumin sẽ giảm đi. Theo Bộ Công thương, cho đến nay không một nhà đầu tư nước ngoài nào chấp nhận đầu tư vào đường sắt gắn với dự án khai thác bauxit.
Ngoài ra, tuyến đường sắt này lại là một công trình gây tác động mạnh đến rừng, hệ sinh thái rừng và động vật hoang dã, đến đất canh tác và cây trồng nông lâm nghiệp của cư dân trên một tuyến dài với tổng diện tích khoảng 540ha. Trong thời gian vận hành, do địa hình đồi núi phức tạp, chi phí phát sinh để duy tu, bảo dưỡng đường, chống các sự cố trượt lở núi, sạt lở taluy, hỏng đường sẽ rất lớn, như đang xảy ra trên đọan đường sắt qua đèo Hải Vân hiện nay. Tình huống đó càng làm giảm lợi nhuận của việc khai thác bauxit Tây Nguyên. Chính vì vậy tuyến đường sắt Đak Nông - Bình Thuận không hấp dẫn các nhà đầu tư. Cần nghiên cứu kỹ hơn phương án vận tải ngoài trong mối liên quan với vị trí đặt nhà máy Alumin.
- Phương thức, công nghệ khai thác và vấn đề môi trường
Quặng bauxit Tây Nguyên có những đặc điểm: Phân bố dàn trải trên diện rộng, tổng diện tích chứa bauxit lên đến 20.000 km2; Chiều dày lớp quặng trung bình khoảng 4-6m, hiếm khi dày hơn 10m; Cấu tạo thân quặng phân lớp, từ trên xuống dưới gồm: lớp thổ nhưỡng (0,8-2,5m) đất đỏ bazan màu mỡ với thảm thực vật tươi tốt, lớp kết vón laterit (1,5-2,0m), lớp quặng bauxit (4-6m), lớp sét loang lổ chứa caolinit (2-3m), cuối cùng là lớp đá bán phong hóa và đá gốc bazan. Quặng nằm gần mặt đất, hệ số bóc đất đá nhỏ; Hàm lượng các kim loại nặng, các nguyên tố độc hại, kể cả phóng xạ trong bauxit là rất thấp, vì vậy khả năng chúng gây ô nhiễm môi trường trong quá trình khai thác quặng bauxit là không đáng lo ngại. Những đặc điểm này rất thuận lợi cho việc khai thác quặng bauxit bằng khai trường lộ thiên.
Tuy nhiên, khai thác lộ thiên bauxit, đặc biệt là bauxit gibxit sẽ gây tác động nhiều mặt đến môi trường đất, nước, không khí, thảm thực vật, cư dân bản địa. Tây Nguyên có các loại cây trồng có giá trị kinh tế: cà phê, chè, cao su, thông, chiếm diện tích lớn và đang ở giai đoạn sinh lợi. Nơi bauxit phân bố ở các độ cao 900m, 1000-1100m và 2500-2950m còn có thảm rừng tự nhiên. Tây Nguyên là vùng đất đa sắc tộc. Cư dân bản địa hiện còn nghèo, họ sinh sống chủ yếu dựa vào cây trồng và tài nguyên phi gỗ trong rừng. Khi khai thác quặng bauxit thì hai hệ sinh thái chịu tác động mạnh nhất là hệ sinh thái rừng tự nhiên và hệ sinh thái nông nghiệp. Qua nghiên cứu tại mỏ Tân Rai (với công suất 300.000 tấn Alumin/năm), ước tính tổng thiệt hại tài nguyên cây trồng trong 20 năm đầu do hoạt động khai thác và tuyển quặng gây ra đã là khoảng 1.804,1 tỉ đồng. Đối với đồng bào dân tộc Tây Nguyên thì con số này rất có ý nghĩa. Khai thác lộ thiên sau khi bóc lấy lớp bauxit, sẽ làm thay đổi cơ bản phẩu diện đất, các hợp phần dinh dưỡng trong đất mất đi, chỉ còn lại lớp sét nguyên chất, mà từ đó để hình thành nên lớp thổ nhưỡng như hiện tại phải mất hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm.
Theo tài liệu địa chất, nước ngầm ở Tây Nguyên là có hạn, mực nước ngầm ngày càng xuống thấp do nhu cầu sử dụng nhiều, nhất là tưới cà phê. Tây Nguyên là “nóc nhà Đông Dương”, nguồn bổ cập nước ngầm duy nhất là nước mưa. Nước ngầm cũng như nước mặt của Tây Nguyên tạo dòng chảy ngầm và dòng mặt đổ về 2 phía: biển Đông và sông Mekong. Khí hậu ở đây 2 mùa rõ rệt: 6 tháng mùa mưa và 6 tháng mùa khô, do vậy, thiếu hụt nước vào mùa khô là rất nghiêm trọng. Công nghiệp Alumin cần nhiều nước để rửa tuyển, chế biến, ước tính 60 m3nước cho 1tấn Alumin. Theo quy hoạch của TKV, đến năm 2025, riêng tại Đak Nông có 4 nhà máy với tổng công suất 9,6- 13,2 triệu tấn Alumin, thì lượng nước cần đảm bảo khoảng 576-792 triệu m3. Phương án bơm cưỡng bức nhiều cấp để lấy nước sông Đồng Nai dùng cho các nhà máy là quá tốn kém, sẽ đẩy giá thành Alumin lên cao, nên tính khả thi thấp.
Cho đến nay chúng ta chưa có nghiên cứu nào đánh giá tổng hợp và khuyến nghị nên dùng công nghệ hiện đại nào phù hợp với điều kiện tự nhiên như thổ nhưỡng, đất đai, khí hậu… của Tây Nguyên. Chính vì vậy chỉ riêng vấn đề hồ chứa bùn thải có thể cần phải xem xét với những điểm khác xa với các vùng khác như: địa hình hồ ở trên vùng đất cao, có độ dốc lớn, đất có độ thẩm thấu lớn, nơi đầu nguồn của sông suối và có nhiều mạch nước ngầm, chi phí để xây dựng hồ chứa đảm bảo an toàn khi có mưa lớn… tất cả các điều kiện này có thể dẫn tới hệ quả là chi phí đầu tư để giải quyết triệt để các vấn đề môi trường sẽ rất lớn, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của giá sản phẩm. Mặt khác, cao nguyên Đak Nông là nơi bắt nguồn của nhiều nhánh sông, suối đổ vào hệ thống sông Đồng Nai ở phía Nam và hệ thống sông Krông Knô ở phía Bắc, vì vậy nước thải từ các nhà máy và dòng bùn đất màu đỏ từ các khai trường bauxit ở Đak Nông rất dễ sẽ làm ô nhiễm những hệ thống sông này. Vào mùa mưa, lượng đất đá thải có thể rửa trôi xuống các dòng chảy, bồi lấp những vùng đất canh tác của cư dân ở hạ lưu.
Về công nghệ khai thác có thể thấy hai dự án Nhân Cơ và Tân Rai chưa có công nghệ nguồn chắc chắn, sử dụng công nghệ của Trung Quốc là rất mạo hiểm khi mà thực tế sản xuất ở Trung Quốc dễ dàng nhận thấy họ không có bauxit gibxit và gần như chưa có công nghệ xử lý loại quặng này. Ngay cả năm 2001 khi xây dựng dự án tiền khả thi cho dự án liên doanh khai thác bauxit và sản xuất alumin mỏ 1-5 ở Đak Nong họ vẫn đề xuất công nghệ hoà tách ở nhiệt độ 1800, điều này chứng tỏ trình độ công nghệ của họ chưa hiện đại, còn nhiều điều cần xem xét. Trong khi đó TKV chỉ cam kết chung chung là sẽ vận dụng công nghệ và mô hình tiên tiến nhất, nêu tên một vài công nghệ để dẫn chứng… và chưa rõ ràng quyết định cuối cùng sẽ sử dụng công nghệ nào và mô hình nào sẽ được vận dụng? các nghiên cứu khả thi? chi phí và hoạch toán thế nào?
Vì vậy chúng ta cần xác định khai thác bauxit là cần thiết, góp phần phát triển nền kinh tế tuy nhiên cần thiết lựa chọn phương thức, lộ trình, công nghệ khai thác phù hợp, sao cho gây ra ít thiệt hại nhất đến môi trường.
- Chọn thời điểm thích hợp để biến tiềm năng khoáng sản thành nguồn lợi vật chất, thúc đẩy phát triển kinh tế
Khoáng sản trong lòng đất là tài sản quốc gia do Nhà nước thống nhất quản lý. Bauxit ở Tây Nguyên là một tài nguyên tiềm năng có giá trị rất lớn, cần được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Tại điều 5 khoản 1 của Luật Khoáng sản quy định: "Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản; ưu tiên các dự án có áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong khai thác, chế biến, làm ra sản phẩm có giá trị và hiệu quả kinh tế - xã hội cao”. Tại khoản 4 điều 5 nêu rằng Chính phủ hạn chế việc xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô.
Như vậy, trước hết chúng ta không nên hành động như số nước xuất khẩu khoáng sản dạng thô, cung cấp 70% lượng bauxit nhập khẩu của Trung Quốc, tạo điều kiện cho Trung Quốc phát triển công nghiệp nhôm, năm 2008 dự báo đạt 22 triệu tấn alumin, và nâng lên 30 triệu tấn vào năm 2009. Trên thế giới, Úc là nước sản xuất 40% lượng bauxit của thế giới. Brazil, Guinea, và Jamaica cũng là những nước khai thác nhiều quặng bauxit.
Quy trình tổng quát khai thác và chế biến quặng bauxit thông dụng trên thế giới gồm nhiều công đoạn: khai thác quặng bauxit -> tuyển quặng -> chế biến Alumin -> điện phân Nhôm -> tạo hình các sản phẩm nhôm kim loại ->chế tạo các hợp kim nhôm. Trên thị trường London, giá giao dịch tháng 7/2008 là 3.085USD/tấn nhôm, Nếu quy ước một tấn nhôm kim loại giá là 100, thì một tấn Alumin có giá là 12,5, một tấn quặng bauxit có giá là < 5. Như vậy, càng chế biến sâu quặng bauxit thì giá sản phẩm tạo ra tăng lên gấp bội. Vậy đối với bauxit Tây Nguyên một câu hỏi lớn là cần và nên khai thác và chế biến đến mức nào?
Nếu quy trình chế biến chỉ dừng ở mức tạo ra sản phẩm Alumin thì giá trị gia tăng của nó chưa đáng kể so với quặng bauxit nguyên khai. Mặt khác, Alumin chủ yếu dùng cho xuất khẩu, do vậy cần phải tính đến việc làm đường chuyên dụng để chuyển tải toàn bộ sản phẩm Alumin đến một cảng biển gần nhất, điều đó đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Xét từ nhiều góc độ khác nhau, có thể thấy rằng khai thác bauxit Tây Nguyên mà chỉ sản xuất Alumin là việc không nên làm ở giai đoạn hiện nay. Nếu sản xuất ra nhôm kim loại dựa vào phương pháp điện phân thì đòi hỏi một lượng điện năng lớn tương ứng (Để sản xuất ra một tấn tinh quặng cần khoảng 15-20 kWh, một tấn Alumin là 260-300 kWh và một tấn Nhôm là 14 - 15.000 kWh, chi phí điện có thể chiếm đến 25% giá thành trong sản xuất nhôm), trong lúc cả nước ta đang trong hoàn cảnh thiếu điện trầm trọng. Hiện nay trên thế giới, các nước sản xuất nhiều nhôm nhất là Nga, Trung Quốc, Mỹ và Canada ... là những nước có nguồn điện (thủy điện) dồi dào, nhờ vào đó mà họ thu được lợi nhuận cao trong khai thác và chế biến quặng bauxit.
Nếu Việt Nam sản xuất được nhôm kim loại và luyện cán nhôm, thì đó là bước đi quan trọng trong việc thực hiện chủ trương của Nhà nước đã được thể chế hoá trong Luật Khoáng sản, tại điều 48 khoản 1 chỉ rõ rằng Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư đối với các dự án chế biến khoáng sản thành nguyên liệu tinh và sản phẩm; các dự án khai thác và chế biến khoáng sản liên hoàn với công nghiệp sản xuất có sử dụng vật liệu từ khoáng sản.
Vấn đề năng lượng điện trong sản xuất nhôm có thể giải quyết bằng nhiều cách, một là kêu gọi đầu tư nước ngoài hợp tác để xây dựng tổ hợp Bauxit - Nhôm Tây Nguyên, bao gồm cả hạng mục nhà máy nhiệt điện để điện phân nhôm. Phương thức này mang tính khả thi, song cần chuẩn bị kỹ càng để tránh thua thiệt trong đàm phán với các đối tác nước ngoài. Hai là, khắc phục tình trạng thiếu điện trước, rồi mới tiến hành phát triển công nghiệp Bauxit - Nhôm ở Tây Nguyên. Đẩy nhanh tốc độ xây dựng các công trình thuỷ điện đã quy hoạch trên sông Đồng Nai bao gồm: ĐN1; ĐN2; ĐN3; ĐN4; ĐN5; ĐN6 và ĐN8, Đak Tih, Bảo Lộc, La Ngâu... với tổng công suất lên đến 1578MW, cùng các nấc thang thuỷ điện trên hệ thống sông Đa Krong, sông Xê Xan, sông Ba... của vùng Tây Nguyên, sẽ là giải pháp tích cực nhất để cung cấp điện cho tổ hợp Bauxit - Nhôm trong tương lai tại Tây Nguyên.
- Về tổ hợp Bauxit - Nhôm Tây Nguyên trong tương lai
Việc xem xét vấn đề triển khai dự án bauxit Tây Nguyên cần thêm nhiều các nghiên cứu một cách tổng hợp với sự tham gia của nhiều cơ quan ban ngành cũng như giới khoa học. Tuy nhiên nếu xét từ nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là kinh tế tài nguyên, có thể thấy rằng, trước mắt chưa nên vội vàng khai thác bauxit quy mô lớn và chế biến ở mức tạo ra sản phẩm Alumin dành cho xuất khẩu vì giá trị của nó quá thấp so với nhôm kim loại. Khai thác dần, chậm nhưng tăng cao hiệu quả khai thác vì bauxit và sản phẩm từ nhôm sẽ ngày càng có giá trị hơn do sự khan hiếm dần của nguyên liệu khoáng này trên thế giới (Giá nhôm năm 1993 là 1.113USD/tấn, năm 2008 là 3085 USD/tấn), ngoài ra còn do nhu cầu về các sản phẩm nhôm kỹ thuật cao, các hợp kim nhôm, trong đó có hợp kim Al-Mg, Al-Ti (hợp kim Ti-6Al-4V) sử dụng trong ngành hàng không, chế tạo tên lửa, tàu vũ trụ sẽ ngày càng lớn do những tính chất ưu việt của các hợp kim nhôm. Riêng việc chế tạo ra các hợp kim nhôm kỹ thuật cao có lẽ là chuyện vượt quá tầm với của trình độ khoa học và kỹ thuật hiện tại của Việt Nam.
5. Một số kiến nghị 1. Cần nghiêm túc thực hiện Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị liên quan đến Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxit giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025. Theo đó cần lưu ý quy hoạch và kế hoạch triển khai các dự án phải "trên cơ sở hiệu quả tổng thể, gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội", trong đó, chú ý đúng mức đến việc tiết kiệm tài nguyên, nhu cầu thị trường, sản phẩm phải có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới... và phải quan tâm đúng mức đến đời sống và giữ gìn bản sắc văn hoá các dân tộc Tây Nguyên, tạo công ăn việc làm cho nhân dân địa phương, việc sử dụng lao động nước ngoài phải đúng quy định của pháp luật.
2. Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bauxit Tây Nguyên là một chương trình rất lớn, tầm cỡ quốc gia, vốn đầu tư nhiều (189.110 – 249.420 tỷ VNĐ), vừa mang tính liên ngành, vừa gây tác động liên vùng: Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, thậm chí xuyên biên giới đến Campuchia. Vì vậy cần được tiến hành đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) theo đúng quy định tại điều 14, chương III của Luật bảo vệ môi trường, trước khi cho triển khai trên diện rộng. Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của từng dự án riêng rẽ là cần thiết, nhưng chưa đủ. Riêng đối với các dự án trong tổ hợp bauxit Tây Nguyên cần khẩn trương hoàn thiện Báo cáo Đánh giá tác động Môi trường. Bộ Tài Nguyên và Môi trường chịu tránh nhiệm thẩm định chặt chẽ các báo cáo ĐTM này, đặc biệt lưu ý đến các vấn đề môi trường và đánh giá tác động xã hội của dự án, nếu cần thiết đề nghị xây dựng các bác cáo ĐTM bổ sung các dự án.
3. Chương trình thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bauxit Tây Nguyên có thể sẽ mang lại lợi ích kinh tế, nhưng đồng thời cũng gây ra tác động nhiều mặt đến môi trường tự nhiên và xã hội. Vì vậy, cần cân nhắc cẩn thận, cần tiến hành phân tích chi phí - lợi ích, đặc biệt là chi phí - lợi ích mở rộng (trong đó có tính đúng, tính đủ các lợi ích và thiệt hại đến môi trường tự nhiên và xã hội) của cả chương trình. Cần minh bạch và công khai hóa kết quả tính chi phí lợi ích của chương trình bauxit và đối sánh với các chương trình phát triển khác trên vùng đất Tây Nguyên để thấy rõ hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường theo định hướng phát triển bền vững Tây Nguyên.
4. Tây Nguyên là vùng đất còn nghèo so với các nơi khác trong nước. Sau ngày giải phóng miền Nam 1975 đã có chương trình nghiên cứu phát triển Tây Nguyên I, tiếp theo là chương trình nghiên cứu Tây Nguyên II. Nay đề nghị cho khởi động chương trình Tây Nguyên III, với sự hợp tác của chuyên gia thuộc nhiều chuyên ngành tự nhiên và xã hội, để nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên theo định hướng phát triển bền vững, trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Chương trình này đặt dưới sự chủ quản của Ban chỉ đạo Tây Nguyên.
5. Hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ hàm chứa nhiều yếu tố rủi ro cần tiến hành tái thẩm định kỹ tính kinh tế và đặc biệt là các tác động đến tài nguyên và môi trường, giải pháp phòng chống rủi ro môi trường và xử lý chất thải, lựa chọn công nghệ và địa điểm xây dựng nhà máy Alumin.
Ban Tổng hợp