Lời nguyền tài nguyên hay hệ quả của nền quản trị kém?

Thứ ba - 25/05/2010 16:37
Điểm chung giữa các nhà lý thuyết về lời nguyền tài nguyên là một nền quản trị kém đóng vai trò là một nhân tố quan trọng để giải thích lời nguyền tài nguyên.

Cụm từ "lời nguyên tài nguyên" lần đầu được Richard Auty dùng trong cuốn sách của mình có tựa đề: Duy trì phát triển trong các nền kinh tế khoáng sản: giả thuyết lời nguyền tài nguyên vào năm 1993. Ông đã chỉ ra rằng "không chỉ các quốc gia giàu tài nguyên có thể thất bại trong việc làm lợi từ của trời cho, thậm chí các nước này còn hoạt động kém hiệu quả hơn các nước khác mà thiên nhiên kém ưu đãi hơn".

Các nghiên cứu cũng cho thấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, và thậm chí hơn thế, là hiện tượng bùng nổ khai thác tài nguyên có thể gây ra các hậu quả tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và phát triển con người trong giai đoạn dài.

Như vậy, khồn nên coi tài nguyên thiên nhiên như là vận may vô tận, mà đòi hỏi cách quản lý kinh tế vĩ mô phù hợp và quản trị hiệu quả, cụ thể là dưới dạng thể chế minh bạch và có trách nhiệm giải trình.

Nhưng để làm được điều đó, điều đầu tiên cần là hiểu rõ hơn lời nguyền tài nguyên xảy ra như thế nào và tại sao.

Hai thành phần cơ bản của lời nguyền tài nguyên không nằm ngoài cái gọi là: căn bệnh Hà Lan và nền quản trị yếu kém.

Căn bệnh Hà Lan

Căn bệnh Hà Lan đề cập tới một tình huống hay hiện tượng ở đó một ngành phát triển mạnh kéo theo sự thụt giảm của các ngành khác, thường là ngành chế tạo, sản xuất. Thuật ngữ này liên hệ tới kinh nghiệm của Hà Lan trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khi mà ngành chế tạo và sản xuất đột ngột sụt giảm trước việc khai thác lớn lượng dầu khí ở vùng Groningen, Biển Bắc.

 

Sự nghèo đói của nhiều nước châu Phi đối lập với sự giàu có về tài nguyên dầu khí của các nước này.

Trên thực tế, một ngành đang bùng nổ có thể liên quan tới bất kỳ các ngành khác của nền kinh tế do ngành này thu được các khoản tiền lớn từ xuất khẩu hay dòng ngoại tệ chảy vào nền kinh tế. Do đó mà gây ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế khác. Tuy nhiên, sự bùng nổ thường liên hệ chặt chẽ với tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ và khoáng sản bởi lẽ các tài nguyên này thường có những biến động lớn về sản lượng hay nguồn thu do giá tăng đột ngột, việc phát hiện ra các mỏ mới hoặc các công nghệ mới làm tăng đáng kể sản lượng, vv.

Trong nguyên lý chính yếu của mô hình căn bệnh Hà Lan, một ngành phát triển bùng nổ sẽ làm lu mờ các ngành khác trên hai phương diện, thứ nhất qua việc chuyển nguồn lực qua ngành đang bùng nổ (hiệu ứng chuyển dịch nguồn lực) và làm tăng chi tiêu ở các ngành phi thương mại (hiệu ứng tiêu dùng).

Về phần hiệu ứng dịch chuyển nguồn lực, khi ngành khai thác tài nguyên phát triển mạnh nó đòi hỏi vốn và lao động, do đó mà tiền lương tăng lên. Điều này dẫn tới hàng loạt lao động chuyển dịch sang từ các ngành yếu thế hơn cho ngành khai thác tài nguyên.

Về khía cạnh hiệu ứng tiêu dùng, do sự bùng nổ của việc khai thác tài nguyên nên nhà nước thu được một lượng nguồn thu và ngoại tệ dồi dào. Việc dư thừa này có hại cho các ngành phi thương mại như sản xuất, chế tạo và nông nghiệp do chi phí đầu vào của các ngành này tăng lên. Đồng nội tệ sẽ tăng giá so với ngoại tệ và làm khó khăn cho các ngành sản xuất và chế tạo vì khả năng cạnh tranh quốc tế về giá giảm xuống do ngành này lệ thuộc vào xuất khẩu.
Căn bệnh Hà Lan trở nên nghiêm trọng khi việc khai thác tài nguyên đột ngột giảm do giá tài nguyên giảm hay nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Sự biến động này có thể tạo ra một sự mất ổn định cho nền kinh tế và có thể lan ra và ảnh hưởng tới các ngành khác, và dĩ nhiên là gây thiệt hại cho ngành sản xuất và chế tạo nhiều hơn.

Tuy nhiên, một trong các vấn đề tranh cãi chủ yếu trong mối liên quan tới lời nguyền tài nguyên, là về vai trò của ngành chế tạo và sản xuất trong sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.

Davis (1995) đã lập luận rằng căn bệnh Hà Lan miêu tả một sự biến đổi của nền kinh tế quốc dân từ một giai đoạn dài cân bằng tới một giai đoạn khác. Ông gọi căn bệnh Hà Lan là "một giai đoạn ốm yếu" với các dấu hiệu giản đơn về "sự dịch chuyển đột ngột và tạm thời trong lợi thế cạnh tranh" nhưng không có ngụ ý là có một sự mất mát về kinh tế.

Mặc dù, các đề xuất về thuyết lời nguyền tài nguyên đã lập luận rằng ngành chế tạo và sản xuất có các đặc điểm đặc biệt và khá là quan trọng với các nước đang trên đà phát triển và công nghiệp hóa. Họ lập luận vì cạnh tranh trong ngành sản xuất và chế tạo là phụ thuộc vào công nghệ, cạnh tranh khuyến khích cải tiến kỹ thuật, phát triển giáo dục và học thông qua làm việc (Sachs & Warner 1995; Gylfason, 2001).

Các khía cạnh này được liên tưởng tới "vẻ bề ngoài tích cực" của ngành chế tạo và sản xuất cái mà lan tỏa tới các ngành khác của nền kinh tế và thúc đẩy phát triển.

Nếu so sánh thì các ngành liên quan tới khai thác tài nguyên không tạo ra các khuyến khích tương tự để đầu tư vào giáo dục hay phát triển cong nghệ dù trên phương diện cá nhân hay nhà nước.

Ý tưởng về các vẻ bề ngoài tích cực của ngành chế tạo, sản xuất thì một chút nào đó vẫn mang tính suy đoán mà thôi (Sala-i-Martin & Subramanian, 2003).

Thậm chí Sachs & Warner (1997) đã thừa nhận rằng những giả định này phần lớn dựa vào các bằng chứng của các mối quan hệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng của xuất khẩu của ngành chế tạo, sản xuất. Trong đó các nền kinh tế mà đa dạng hóa xuất khẩu thì thực hiện tốt hơn.

Vì lý do này, các đề xuất khác về lời nguyền tài nguyên có xu hướng nhằm nhấn mạnh những hiệu ứng của việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tới các nhân tố phi kinh tế như quan trị và chất lượng thể chế...

Quản trị yếu kém

Một điểm chung giữa các nhà lý thuyết về lời nguyền tài nguyên là một nền quản trị kém đóng vai trò là một nhân tố quan trọng để giải thích lời nguyền tài nguyên.

Auty (2006) lập luận rằng việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra khuynh hướng một đường cung địa tô cao được đo đếm bằng tỷ lệ của nguồn thu trên tổng đầu tư. Địa tô cao ảnh hưởng tới chính phủ và các thể chế công bằng các cách thức cá biệt.

Một cung đường địa tô cao sẽ có khuynh hướng ảnh hưởng tới chính phủ trong các chính sách tái phân bổ địa tô thứ mà có quyết định mang tính chính trị lớn hơn và trực tiếp hơn, trong khi cũng làm chệch hướng các khích lệ từ sự tạo ra thịnh vượng hiệu quả.

Nó cũng sẽ có khuynh hướng kéo dài sự ỷ lại của chính phủ vào xuất khẩu các mặt hàng, trong khi thất bại trong việc hấp thụ nguồn lực lao động nông thôn dư thừa, do đó tạo ra tình trạng tăng thu nhập một cách thiếu công bằng (Auty, 2006; Sachs & Warner, 1995).

Trái lại, một cung đường địa tô thấp như trong ngành sản xuất, chế tạo, sẽ xui khiến chính phủ thúc đẩy sự tạo ra thịnh vượng bằng việc cung cấp các mặt hàng và duy trì các khuyến khích đầu tư hiệu quả (do vậy mà chính phủ có thể thu hái được các nguồn thu từ thuế); khuyến khích một nền công nghiệp hóa mang tính cạnh tranh từ sớm với lực lượng lao động tăng cường và đòi hỏi việc đô thị hóa từ giai đoạn sớm hơn; gây ra một chu kỳ xã hội đạo đức với việc duy trì sự bình đẳng về thu nhập bởi lẽ một nền công nghiệp sản xuất và chế tạo từ sớm có khả năng giải quyết vấn đề lao động nông thôn dư thừa; và thu được một lượng tiết kiệm thực cao hơn (Auty, 2006).

Tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF) cũng liên hệ "hiệu ứng tham lam" của việc khai thác tài nguyên tới chất lượng công quyền (Sala-i-Martin & Subrmamanian, 2003).

Họ lập luận rằng địa tô cao cho khai thác tài nguyên thiên nhiên cổ vũ cho thói quan liêu và tìm kiếm địa tô tham lam, những thứ mà có thể là các bảo hộ thuế tới quen biết hoặc tham nhũng (Gylfason, 2001; Sachs & Warner, 1995).

Một số nhà lý thuyết cho rằng khai thác tài nguyên thiên nhiên sẽ có xu hướng cổ vũ cho một "nhà nước bóc lột" hơn là một nhà nước phát triển (Coxhead, 2007).

Ross (2001) cho rằng khi mà các chính phủ chủ yếu dựa vào nguồn thu từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên hơn là thuế thu nhập, các chính phủ này kém giải trình về các nhu cầu từ các công dân của họ.

Trong nghiên cứu ở trên, ông lập luận rằng các thuế cá nhân và đoàn thể cao hơn quan hệ chặt chẽ tới chính phủ dân chủ hơn.

Ông cũng chỉ ra sự giàu có về dầu mỏ và khoáng sản đã xúi giục các chính phủ đầu tư nhiều hơn vào an ninh nội địa. Dù rằng các lực lượng được tăng cường nhằm giải quyết các xung đột nổi cộm liên quan tới tài nguyên thiên nhiên hay phục vụ lợi ích bản thân của chính phủ là không rõ ràng, nhưng các lực lượng này luôn sẵn sàng để bảo vệ lợi ích của chính phủ.

Địa tô cao có thể dẫn tới tình trạng chính phủ chi tiêu lãng phí và dễ dàng, bao gồm mở rộng bộ máy chính phủ và vung tay chi tiêu cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Ở cả hai khía cạnh chi tiêu này, các công chức có thể thu được các lại quả.

Davis (1995) ghi chú rằng bóng ma căn bệnh Hà Lan có thể châm ngòi cho các chính sách chủ nghĩa bảo hộ để hỗ trợ các ngành công nghiệp thiếu hiệu quả hoặc tạo ra một trạng thái lạc quan thái quá về kế hoạch kinh kế vĩ mô, dẫn tới các phỏng đoán sai. Đơn cử trường hợp Mehico đã vay mượn tài chính thiếu cân nhắc nhằm đối phó với các nguồn thu đột ngột được dự đoán.

Sự đồng thuận ngày càng tăng giữa các nhà lý thuyết về nguyên nhân đầu tiên của lời nguyền tài nguyên là từ một nền quản trị yếu kém kết hợp với các quyết định chính sách nghèo nàn, đặc biệt là trong sản xuất dầu mỏ và khoáng sản.

Davis (1995) đã tóm tắt "các chính sách công nghiệp hóa mang tính tự cung tự cấp, bảo hộ các ngành đang ngắc ngoải, các chính sách bất ổn về tỷ giá hối đoái và một chính phủ can thiệp nặng nề với việc kéo dài các giai đoạn điều chỉnh thông qua cách cấm đoán các biến chuyển mang nhân tố ngành là phản ứng chung của căn bệnh Hà Lan".

 

Theo: tuanvietnam.net

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây