Mối quan hệ giữa độ mở cửa thương mại và phát thải khí CO2 ở Việt Nam

Thứ ba - 22/08/2023 23:29
Thương mại ảnh hưởng xấu hay tốt đến môi trường là vấn đề mà các nhà kinh tế môi trường vẫn tiếp tục đi tìm câu trả lời nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu đang trở thành xu thế tất yếu. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đó về vấn đề này còn gây nhiều tranh cãi và không hoàn toàn nhất quán với nhau. Mục đích của bài viết này nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa mở cửa thương mại và ô nhiễm môi trường.

Cụ thể, nghiên cứu đánh giá mối quan hệ định lượng giữa độ mở cửa thương mại với phát thải khí CO2 ở Việt Nam giai đoạn 2011-2019 sử dụng số liệu cấp tỉnh thông qua phương pháp GMM. Kết quả cho thấy khi độ mở thương mại tăng thì lượng CO2 phát thải cũng tăng lên. Ngoài ra, lý thuyết đường cong môi trường Kuznets và giả thuyết “thiên đường ô nhiễm” đúng với trường hợp của Việt Nam cho số liệu đang xét. Do đó, để duy trì tăng trưởng bền vững, các nhà hoạch định chính sách cần chú trọng các hoạt động thương mại ít phát thải khí CO2 cũng như lựa chọn các dự án phát triển kinh tế “xanh” ít gây tổn hại cho môi trường.

1. Giới thiệu chung

Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới kinh tế toàn diện vào năm 1986. Sau hơn 30 năm chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng với tỷ lệ nghèo đói cả nước giảm đáng kể. Điều này một phần là do nước ta tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sau thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới năm 2007 đánh dấu bước ngoặt trên con đường hội nhập, từ hội nhập khu vực nâng lên cấp độ toàn cầu. Độ mở thương mại cao khiến nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch phục vụ các hoạt động thương mại tăng lên, làm gia tăng lượng phát thải khí CO2.

Thương mại được cho là nguyên nhân khiến các nước phát triển “xuất khẩu” ô nhiễm môi trường sang các nước đang phát triển bởi các nước phát triển thường có tiêu chuẩn môi trường cao hơn. Trong khi đó, với các ngành có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao thì các nước đang phát triển có lợi thế so sánh hơn vì chi phí kiểm soát/xử lý ô nhiễm môi trường thấp hơn. Việt Nam cũng là quốc gia đang phát triển  kinh tế và xuất khẩu nhiều hàng hóa trong tiến trình hội nhập quốc tế. Vậy liệu Việt Nam có nằm trong vòng xoáy quy luật các quốc gia xuất siêu thì thường có môi trường bị phá hủy không? Đây là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách khi mà mục tiêu bảo vệ môi trường được ưu tiên bậc nhất ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Cho đến nay, có một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa mở cửa thương mại với ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu này tập trung nhiều vào ảnh hưởng của tự do hóa thương mại hay đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến chất lượng môi trường, và chưa có nghiên cứu nhấn mạnh ảnh hưởng của độ mở cửa thương mại đến phát thải khí CO2 ở Việt Nam sử dụng số liệu cấp tỉnh. Ngoài ra, mối quan hệ giữa khí thải CO2 và biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện đang là mối quan tâm lớn của các nhà kinh tế môi trường, đặc biệt đối với các nước đang phát triển với cường độ công nghiệp hóa cao. Do vậy, nghiên cứu này được cho là cấp thiết trong bối cảnh các thách thức và đe dọa của BĐKH ngày càng diễn biến nghiêm trọng và khó lường.

2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

2.1. Khái niệm độ mở cửa thương mại

Độ mở thương mại có thể được định nghĩa là mức độ mà một nền kinh tế duy trì định hướng hướng ngoại của mình trong thương mại (Fujii 2019). Trong phạm vi nghiên cứu này, độ mở thương mại (Trade Openness) được tính bằng cách lấy giá trị tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (Export and Import) của một thời kỳ chia cho giá trị của tổng sản phẩm trong nước cũng trong thời kỳ đó:

23 8 23 1

2.1.1. Lý thuyết về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và môi trường: Đường cong môi trường Kuznets (EKC)

Simon Kuznets giới thiệu đường cong môi trường Kuznets nhằm mô tả mối quan hệ giữa chất lượng môi trường và thu nhập đầu người theo thời gian. Theo đó, suy thoái môi trường sẽ gia tăng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển khi thu nhập bình quân đầu người (GDP/capita) còn ở mức thấp, tức là nền kinh tế càng phát triển thì lượng chất thải ra môi trường càng tăng (hay chất lượng môi trường giảm). Tuy nhiên, khi tăng trưởng đạt đến điểm chuyển đổi, con người có điều kiện về mặt kinh tế và bắt đầu có xu hướng đầu tư khoa học kỹ thuật để giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường, lúc này mức thu nhập vượt ngưỡng chuyển đổi thì chất lượng môi trường có xu hướng được cải thiện.

23 8 23 2

Hình 1. Đường cong Kuznets về môi trường

Nguồn: Yandle và cộng sự (2002)

2.1.2. Lý thuyết về mối quan hệ giữa thương mại và môi trường: Giả thuyết   thiên đường ô nhiễm Pollution Haven Hypothesis (PHH)

PHH được Copeland và Taylor công nhận năm 1994, khi đưa ra mối liên kết giữa các quy định nghiêm ngặt về môi trường, các mô hình thương mại với mức độ ô nhiễm ở một quốc gia. Copeland và Taylor (1994) cho rằng, khi tham gia tự do hóa thương mại, các công ty sản xuất sản phẩm “bẩn” sẽ di chuyển từ các nước giàu có quy định nghiêm ngặt về môi trường sang các nước đang phát triển có các quy định tương đối yếu về môi trường. Do đó, trong xu hướng mở cửa thương mại, các nước đang phát triển sẽ trở thành “thiên đường ô nhiễm” hay nơi “trú ngụ” ô nhiễm cho các ngành công nghiệp “bẩn” của các nước tiên tiến phát triển. Nói cách khác, PHH dự đoán một thảm họa môi trường có thể xảy ra ở các nước đang phát triển - nơi thường có các quy định về môi trường tương đối yếu.

2.2. Khung phân tích ảnh hưởng của độ mở cửa thương mại đến ô nhiễm môi trường và phát thải khí CO2

Theo Chen và cộng sự (2021), sự tác động của độ mở thương mại đến phát thải khí CO2 thể hiện ở ba kênh gồm: (i) hiệu ứng sử dụng năng lượng thay thế; (ii) hiệu ứng quy mô nền kinh tế (đo lường thông qua GDP) và (iii) hiệu ứng công nghệ. Đối với kênh thứ nhất “độ mở thương mại - năng lượng sử dụng thay thế - phát thải khí CO2”, mở cửa thương mại khiến các nước tích cực đẩy mạnh hoạt động giao thương xuất nhập khẩu, FDI và đầu tư cho phát triển năng lượng cũng được tăng cường. Theo đó, việc đầu tư vào năng lượng tái tạo càng ngày càng tăng khiến các nước tham gia mở cửa thương mại có cơ hội tiêu thụ năng lượng tái tạo. Vì vậy, mở cửa thương mại giúp cải thiện cơ cấu tiêu thụ năng lượng trong nước và cuối cùng là giảm phát thải khí CO2.

Đối với kênh thứ hai “độ mở thương mại - GDP - khí thải CO2”, tác động của độ mở thương mại đối với GDP chủ yếu thể hiện ở hai khía cạnh gồm tác động ngoại ứng của công nghệ và hiệu quả kinh tế theo quy mô. Thứ nhất, hiệu ứng lan tỏa tri thức là một động lực quan trọng cho thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hoạt động thương mại xuất nhập khẩu đều giúp mở rộng quy mô thị trường và gia tăng đáng kể nguồn tri thức trong nền kinh tế, tạo môi trường tốt cho các công ty “bắt chước” công nghệ tiên tiến, và do đó thúc đẩy tăng trưởng GDP (Branstetter 2006). Thứ hai, mở cửa thương mại cũng có thể thúc đẩy phát triển kinh tế theo chiều sâu, đưa sản lượng thực tế của doanh nghiệp tiệm cận gần hơn với sản lượng tiềm năng tối đa, qua đó giúp cải thiện hiệu quả kinh doanh và thúc đẩy kinh tế (Herzer 2010).

Đối với kênh thứ ba “độ mở thương mại - cường độ sử dụng năng lượng - phát thải CO2”, về nguyên tắc kinh tế năng lượng thì mở cửa thương mại sẽ làm giảm cường độ năng lượng (Copeland & Taylor 2004). Hiệu ứng này có thể được thể hiện  thông qua hiệu ứng cấu trúc và hiệu ứng công nghệ. Hiệu ứng cấu trúc liên quan đễn những thay đổi trong cơ cấu ngành do độ mở thương mại gây ra. Trong khi đó, hiệu ứng công nghệ liên quan đến các kênh như nghiên cứu và phát triển, giúp các nước tham gia thương mại quốc tế có cơ hội tiếp cận các công nghệ tiên tiến trên thế giới thông qua dòng FDI. Việc sử dụng công nghệ tiên tiến và quy trình sản xuất, thiết bị tiết kiệm năng lượng và ít phát thải sẽ làm giảm cường độ năng lượng công nghiệp (Copeland & Taylor 1997).

Như vậy, ảnh hưởng của độ mở cửa thương mại đến phát thải khí CO2 là ảnh hưởng tổng hợp của 3 kênh trên. Về mặt lý thuyết, kênh năng lượng thay thế và hiệu ứng công nghệ có tác động ngược chiều lên phát thải khí CO2 trong khi kênh hiệu ứng quy mô nền kinh tế thì chưa rõ ràng. Ngoài ra, mối quan hệ giữa độ mở thương mại và phát thải khí CO2 còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như FDI, dân số thành thị, hiệu quản quản trị nhà nước... Phần này sẽ được làm rõ hơn ở phần xây dựng mô hình phân tích bên dưới.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Mô hình lý thuyết

Theo lý thuyết và kênh tác động giữa của độ mở thương mại đến phát thải khí CO2 và trên cơ sở ý tưởng nghiên cứu của McCarney & Adamowicz (2005), tác giả xây dựng mô hình lý thuyết phát thải CO2 là một hàm của độ mở cửa thương mại, GDP, FDI, đô thị hóa, ổn định chính trị và tham nhũng như sau:

CO2 = f(GDP, GDP2, TRADE, FDI, CORRUPT, PCI, URBAN)

Trong đó:

CO2 là biến đại diện cho ô nhiễm môi trường, phát thải từ tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch.

GDP và GDP2 là tổng sản phẩm quốc nội, đưa vào mô hình để phản ánh ảnh hưởng của tổng sản phẩm quốc nội đến chất lượng môi trường, cụ thể trong nghiên cứu này là phát thải khí CO2. Mối quan hệ giữa thu nhập và ô nhiễm được khái quát thông qua đường cong môi trường Kuznets. Theo lý thuyết EKC, tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường có mối quan hệ phi tuyến dạng bình phương, do đó hệ số góc của GDP sẽ dương và hệ số góc của GDP2 sẽ âm.

TRADE: là biến độ mở cửa thương mại. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp đo lường độ mở cửa thương mại bằng cách sử dụng khối lượng thương mại, bao gồm các tỷ lệ khác nhau của biến thương mại là: xuất khẩu, nhập khẩu, tổng kim ngạch với GDP. Theo đó, biến độ mở cửa thương mại được tính theo công thức:

TRADE = (IM+EX)/GDP * 100

Trong đó: EX, IM: tương ứng xuất nhập khẩu

FDI: dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đưa vào mô hình là do FDI được cho là có tác động đến phát thải khí CO2. Có hai luồng ý kiến cho rằng, FDI làm trầm trọng hơn chất lượng môi trường, đồng thời cũng có thể giúp cải thiện môi trường. FDI làm suy thoái môi trường là do để thu hút FDI, chính phủ các nước đang phát triển có xu hướng làm suy thoái môi trường thông qua các quy định về môi trường lỏng lẻo hoặc thực thi kém. Do đó, các công ty FDI sẽ di chuyển hoạt động đến các nước đang phát triển để tận dụng lợi thế của chi phí sản xuất thấp hơn, dẫn đến ô nhiễm và suy thoái môi trường. Bên cạnh đó, lý do FDI giúp cải thiện môi trường là vì các công ty có vốn FDI đến từ những quốc gia phát triển thường có trình độ công nghệ tốt hơn. Cùng với đó, nhiều tập đoàn đa quốc gia chịu áp lực phải tiếp tục sử dụng các công nghệ tiên tiến tại các chi nhánh ở các nước đang phát triển như trụ sở chính. Hơn nữa, các công ty FDI sử dụng công nghệ sạch hơn các công ty trong nước vì những lý do nội bộ như trình độ quản lý chuyên nghiệp và nghiêm ngặt của các công ty nước ngoài.

Biến CORRUPT (kiểm soát tham nhũng) là biến đại diện cho hiệu quả quản quản của nhà nước, được sử dụng trong mô hình nhằm phản ánh ảnh hưởng trực tiếp sự quản trị nhà nước đến chất lượng môi trường (đại diện là khí CO2) thông qua sự tương tác với độ mở cửa thương mại quốc gia. Theo đó, tình trạng tham nhũng có thể bao hàm sự kém hiệu quả của chế độ quan liêu, sự quản trị cũng như quản lý tài chính yếu kém trong khu vực công, đặc biệt là cơ quan quản lý môi trường (Fischer và cộng sự 2001).

Biến PCI (năng lực cạnh tranh cấp tỉnh) được đưa vào nhằm mục đích kiểm tra mối quan hệ giữa chỉ số năng lực cạnh tranh với sự phát thải CO2 của từng tỉnh. Đây là chỉ số đo lường và đánh giá chất lượng điều hành kinh tế, mức độ thuận lợi, thân thiện của môi trường kinh doanh và nỗ lực cải cách hành chính của chính quyền các tỉnh, thành phố qua đó thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Theo   đó, các chỉ số thành phần của PCI như Tiếp cận đất đai dễ dàng và sử dụng đất ổn định; Thủ tục hành chính nhanh chóng; Môi trường cạnh tranh bình đẳng; Sự năng động của lãnh đạo; Chi phí không chính thức; Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển… có tác động trực tiếp đến thu hút FDI vào các địa phương (Huỳnh Thị Thúy Giang 2021). Ngược lại, kênh thu hút FDI này lại ảnh hưởng đến sự phát thải khí CO2 từng tỉnh.

URBAN (dân số đô thị): Dân số sống trong các khu vực đô thị cũng được cho có ảnh hưởng đến khí thải CO2. Nhu cầu năng lượng ngày càng cao, đặc biệt trong việc tiêu dùng năng lượng gia đình như khí đốt, than đá, tăng trưởng mạnh mẽ hơn,  đi cùng với đó là sự phát thải CO2 lớn hơn. Tăng trưởng dân số thành thị có thể dẫn đến một mức độ ô nhiễm trầm trọng hơn vì yêu cầu xả thải và khó khăn trong vấn đề xử lý chất thải lớn.

Tổng hợp về ký hiệu của các biến số, giải thích biến, và kỳ vọng về chiều tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc được thể hiện trong Bảng 1.

Bảng 1. Ký hiệu, giải thích và kỳ vọng chiều tác động của các biến số

23 8 23 3

Nguồn: Tác giả tổng hợp

2.3.2. Mô hình thực nghiệm

Dựa trên mô hình thực nghiệm của McCarney & Adamowicz (2005) kết hợp với mô hình lý thuyết xây dựng ở trên, mô hình thực nghiệm nhằm phân tích mối quan hệ của độ mở thương mại đến phát thải khí CO2 được thiết kế như bên dưới. Bài nghiên cứu sử dụng dạng hàm logarit để hạn chế vấn đề phương sai sai số thay đổi và cho thấy mức độ tăng của các tham số thông qua sự khác biệt trong dạng log của chúng, cụ thể:

log(CO2it) = β0 + β1log(GDPIit) + β2[log(GDPit)]2 + β3log(TRADEit) + β4log(FDIit) + β5CORRUPTit + β6PCIit + β7log(URBANit) + Ut

Trong đó:

+ i: tỉnh/thành phố i

+ t = 2011-2019

+ CO2it: Phát thải khí CO2 năm t của tỉnh/thành phố i

+ GDPit: Tổng sản phẩm quốc nội năm t của tỉnh/thành phố i

+ tradeit: Độ mở cửa thương mại năm t của tỉnh/thành phố i

+ fdiit: Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm t của tỉnh/thành phố i

+ corruptit: Chỉ số phản ánh tình hình tham nhũng quốc gia năm t của tỉnh/thành phố i

+ pciit: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm t của tỉnh/thành phố i

+ urbanit: Dân số thành thị năm t của tỉnh/thành phố i

+ Ut: Sai số ngẫu nhiên

*** Nguồn dữ liệu:

Tác giả sử dụng dữ liệu trong mô hình kinh tế lượng từ nhiều nguồn khác nhau như Tổng cục Thống kê, Vụ Kinh tế địa phương và lãnh thổ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Bộ Công thương, World Bank, Cơ quan Năng lượng quốc tế… từ năm 2011- 2019. Đối với dữ liệu về phát thải khí CO2 từ tiêu thụ năng lượng cấp tỉnh, tác giả tính từ bộ điều tra doanh nghiệp theo công thức của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (2006):

CO2i = Ei x NCVi x CEFi

Trong đó:

+ CO2i: phát thải khí CO2 từ tiêu thụ năng lượng i

+ Ei: năng lượng tiêu thụ i theo đơn vị vật lý

+ NCVi: Nhiệt trị của nhiên liệu i

+ CEFi: là hệ số phát thải khí CO2 của nhiên liệu i;

Và phát thải khí CO2 từ tiêu thụ năng lượng chính trong các doanh nghiệp của từng tỉnh/ thành phố là:

23 8 23 4

với n là số các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố.

2.3.3. Kết quả và thảo luận

Với số liệu sử dụng trong mô hình là dữ liệu bảng, trong nghiên cứu này, ba mô hình được lựa chọn để ước lượng cho dữ liệu bảng gồm mô hình hồi quy cố định (FEM), mô hình hồi quy ngẫu nhiên (REM) và Phương pháp Moments tổng quát (GMM). FEM và REM là hai mô hình phổ biến cho phân tích dữ liệu bảng. GMM được sử dụng trong nghiên cứu này là bởi vì có hiện tượng nội sinh giữa các biến độc lập trong hai mô hình FE và RE khiến các kết quả ước lượng của hai mô hình này bị chệch và không đáng tin cậy. Theo đó, phương pháp GMM sẽ loại bỏ các ước lượng chệch gây ra do hiện tượng nội sinh. Kết quả ước lượng các mô hình từ phần mềm Stata 14 thể hiện ở bảng dưới:

Bảng 2. Kết quả ước lượng của 3 mô hình FE, RE và GMM

23 8 23 5

Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata 14

Ghi chú: ***, **, *: Có ý nghĩa thống kê tương ứng ở mức 1%, 5% và 10%. Giá trị trong () là sai số chuẩn. Kiểm định Wu-Hausman, Hansen xác định hiện  tượng nội sinh trong mô hình.

Kiểm định Hausman cho biết mô hình hồi quy FE là tốt hơn mô hình hồi quy RE (p-value=0,0891>0,05). Tuy nhiên, kết quả cho thấy có xuất hiện hiện tượng biến nội sinh trong mô hình FE do p-value của kiểm định Wu-Hausman=0,000<0,05. Do vậy, mô hình GMM được đề xuất để khắc phục hiện tượng nội sinh. Thật vậy, kết quả kiểm định Hansen thu được P-value=0,676 nghĩa là giả thuyết H0 ban đầu chấp nhận, tức là tất cả các biến công cụ trong mô hình là hợp lý  và không còn hiện tượng nội sinh. Giá trị này càng tiến về 1 chứng tỏ mô hình càng phù hợp. Hơn nữa, các kết quả ước lượng của GMM cũng cho thấy kết quả tốt hơn hẳn so với hai mô hình trước với tất cả các ước lượng đều cho ý nghĩa thống kê (ở mức 1% và 5%). Do đó, mô hình GMM, được cho là phù hợp hơn cả cho dữ liệu đang nghiên cứu.

Dấu của các ước lượng trong mô hình GMM của tất cả các biến độc lập đúng như theo kỳ vọng. Từ bảng kết quả ước lượng cho thấy, biến lngdp nhận giá trị dương, biến lngdp2 nhận giá trị âm và đều có ý nghĩa thống kê mạnh. Điều này chứng tỏ hiệu ứng chữ U ngược có tồn tại hay mối quan hệ giữa GDP với phát thải khí CO2 tuân theo lý thuyết đường cong Kuznets cho số liệu đang nghiên cứu của 63 tỉnh/thành phố Việt Nam giai đoạn 2011-2019. Theo đó, khi GDP chỉ cần tăng 1% thì mức phát thải CO2 giai đoạn 2011-2019 tăng khoảng 6,45%. Điều này có thể giải thích rằng, nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây luôn đạt mức tăng trưởng cao cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã gây ra sức ép rất lớn lên môi trường tự nhiên như gia tăng sử dụng năng lượng từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch.

Đối với biến độ mở thương mại lntrade, kết quả thu được cũng đạt như kỳ vọng về dấu tác động lên khí thải CO2. Theo đó, cứ 1% độ mở tăng lên làm cho mức phát thải khí CO2 từ các ngành tiêu thụ năng lượng các tỉnh tăng gần 0,3%. Nhiều nghiên cứu cũng cho kết quả tương tự như nghiên cứu của Managi và cộng sự (2009). Trong nghiên cứu này, độ mở thương mại làm gia tăng khí thải CO2 ở các nước không thuộc nhóm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Nghiên cứu của Lê Trung Thành & Nguyễn Đức Khương (2017) thực hiện đối với số liệu của Việt Nam giai đoạn 1990-2011 cũng cho kết luận tương tự. Như vậy, có thể thấy rằng các nhà quản lý chính sách ở một số quốc gia vẫn nới lỏng các điều khoản thương mại nhằm thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế với quan điểm rằng những lợi ích biên mang lại cao  hơn so với tổn thất gánh chịu.

Đối với biến lnfdi, kết quả cho thấy, khi FDI từ các quốc gia vào Việt Nam tăng lên 1% thì lượng phát thải khí CO2 tăng 0,026% giai đoạn 2011-2019, tức là FDI có tác động tiêu cực đến môi trường, cụ thể làm tăng phát thải khí CO2. Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam rất dễ rơi vào bẫy “cuộc đua xuống đáy” khi mà giai đoạn trước kia chính phủ thường ưu tiên cho mục tiêu phát triển kinh tế mà chưa chú trọng đến bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, lượng FDI thu hút vào Việt Nam giai đoạn đó liên tục tăng mạnh, nhất là các tỉnh/thành phố có chỉ số năng lực cạnh tốt. Bởi vì dòng vốn FDI thường đầu tư ở những quốc gia có quy định ít nghiêm ngặt về môi trường. Điều này hoàn toàn phù hợp với giả thuyết PHH. Như vậy, kết quả mô hình GMM cho thấy có sự hiện diện của giả thuyết PHH cho số liệu giai đoạn 2011- 2019 của 63 tỉnh/thành phố Việt Nam.

Ngoài ra, các hệ số ước lượng của biến corrupt pci cũng cho kết quả như dự đoán. Khi kiểm soát tham nhũng và năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tốt lên đồng nghĩa với năng lực quản trị địa phương được cải thiện sẽ khiến cho môi trường kinh doanh trong nước sẽ minh bạch, cạnh tranh từ đó gia tăng thu hút FDI từ các quốc gia khác (Võ Văn Dứt & Nguyễn Thị Phương Nga 2015). Do vậy, kiểm soát tham nhũng sẽ có tác động ngược chiều lên CO2 tức là góp phần làm giảm phát thải của khí này cho các tỉnh/thành phố của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2019. Nói cách khác, kiểm soát tham nhũng tốt giúp cải thiện chất lượng môi trường nói chung bằng cách làm tăng hiệu lực của các quy định về môi trường như giới hạn phát thải khí gây ô nhiễm. Theo kết quả mô hình, khi pci và corrupt tăng thêm 1 điểm thì làm giảm 1 lượng phát thải khí CO2 tương ứng là 0,11% và 4,13%.

Cuối cùng, từ kết quả mô hình GMM cho thấy, dân số thành thị có tác động cùng chiều lên phát thải khí CO2, tức là tỷ lệ dân số thành thị tăng lên 1% làm lượng phát thải khí CO2 tăng lên 0,66%. Có thể giải thích rằng, nhu cầu năng lượng ngày càng cao, đặc biệt là tiêu dùng năng lượng khí đốt, than đá, làm gia tăng sự phát thải CO2. Theo Nguyễn Anh Tuấn (2021), than chỉ chiếm 28,1% trong tổng cung cấp năng lượng sơ cấp năm 2010 và duy trì ở mức độ tương đương trong mấy năm kế tiếp. Tuy nhiên, giai đoạn sau 2015 lượng than đá tăng lên 44,3% năm 2018 và đạt kỷ lục 50% năm 2019. Ngoài ra, dân số thành thị tập trung đông còn kéo theo rất nhiều những hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm cao như: giao thông vận tải, hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa.

3. Kết luận và gợi ý chính sách

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, độ mở cửa thương mại và các biến trong mô hình đề xuất đều có ảnh hưởng đến phát thải khí CO2 với mức ý nghĩa thống kê mạnh, trong đó độ mở cửa thương mại của Việt Nam càng tăng thì lượng phát thải CO2 càng nhiều. Hơn nữa, với số liệu cấp tỉnh đang xét cho thấy đều có sự hiện diện của lý thuyết EKC và PHH cho trường hợp ở Việt Nam giai đoạn 2011-2019. Điều này đồng nghĩa rằng, việc thu hút FDI vào nước ta vẫn có dấu hiệu gây ô nhiễm môi trường do làm tăng phát thải khí CO2. Vì vậy, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để thực hiện được mục tiêu giảm phát thải CO2 nhằm giảm thiểu tác động của BĐKH và hướng tới tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, một số gợi ý chính sách được đưa ra gồm:

Thứ nhất, cần xây dựng và hoàn thiện các quy định về xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nhạy cảm với môi trường, đặc biệt hàng hóa, dịch vụ phát thải nhiều CO2. Theo đó, cần có sự tính toán và thống kê toàn diện đối với những sản phẩm/ hàng hóa có mức tác động đến môi trường hoặc những sản phẩm/ hàng hóa có gây ô nhiễm ở hiện tại nhưng chưa có sản phẩm thay thế để đưa ra mức thuế hợp lý, đảm bảo tính cạnh tranh, tính ổn định cho các mặt hàng này.

Thứ hai, cần xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ minh bạch, dễ thực thi nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng máy móc, thiết bị công nghệ cao và công nghệ xanh tiêu hao ít nguyên nhiên liệu, tạo ra ít chất thải. Đây là một chính sách quan trọng nhằm ngăn chặn thiết bị, công nghệ cũ và lạc hậu thông qua hoạt động giao thương thương mại đổ vào nước ta, kéo theo việc tiêu tốn tài nguyên cũng như phát thải các chất gây ô nhiễm làm tổn hại đến môi trường sinh thái.

Thứ ba, cần hạn chế các ngành định hướng xuất khẩu gây tổn hại môi trường, hạn chế một số ngành lĩnh vực xuất khẩu có tính chất thâm dụng tài nguyên và phát thải nhiều chất thải các-bon. Nghiên cứu, xây dựng và áp dụng bộ tiêu chí kinh tế tăng trưởng xanh; ban hành các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ khu vực kinh tế tăng trưởng xanh phát triển.

Cuối cùng, cần tăng cường chính sách FDI gắn với tăng trưởng xanh. Chính phủ và chính quyền các tỉnh/địa phương cần có chính sách phù hợp thận trọng khi lựa chọn nhà đầu tư nước ngoài, cũng như đánh giá đầy đủ các tác động đến môi trường của các dự án FDI cả trước, trong và sau quá trình đầu tư, ưu tiên thu hút dự án FDI ít phát thải khí nhà kính. Bên cạnh việc lựa chọn các nguồn FDI “xanh”, cũng như sửa đổi các điều khoản có lợi cho môi trường trong các cam kết thương mại song phương và đa phương, chính phủ cũng cần thực hiện những giải pháp đồng bộ để đạt được mục tiêu cắt giảm CO2 theo các cam kết quốc tế và cuối cùng là hướng tới mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.

Nguyễn Hà Linh

Trung tâm Thông tin và Dự  báo kinh tế - xã hội quốc gia

Tài liệu tham khảo

1. Branstetter L. (2006), “Is foreign direct investment a channel of knowledge spillovers? Evidence from Japan’s FDI in the United States”, Journal of International Economics, 68(2), pp.325-344.

2. Chen F., Jiang G., Kitila G.M. (2021), “Trade Openness and CO2 Emissions: The Heterogeneous and Mediating Effects for the Belt and Road Countries”, Sustainability, 13 (1958).

3. Copeland B.R. and Taylor S. (1994), “North-South Trade and the Environment”, Quarterly Journal of Economics, No.109, p. 755-787.

4. Copeland B.R. and Taylor M.S. (1997), “The trade-induced degradation hypothesis”, Resource and energy economics, 19, pp.321-344.

5. Copeland B.R. and Taylor M.S., (2004), “Trade, growth, and the environment”, Journal of Economic Literature, 42(1), pp.7-71.

6. Fischer S., Alonso-Gamo P. and Allmen U.E. von, (2001), “Economic Developments in the West Bank and Gaza since OSLO”, The Economic Journal, 111, pp.F254-F275.

7. Fujii E. (2019), “What Does Trade Openness Measure?”, Oxford Bulletin of Economics & Statistics, 81(4), pp. 868-888.

8. Herzer D. (2010), “Outward FDI and economic growth”, Journal of Economic Studies, 37(5), pp.476-494.

9. Huỳnh Thị Thúy Giang, (2021), “Mối quan hệ giữa chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các địa phương Việt Nam”, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số 228.

10. Lê Trung Thành và Nguyễn Đức Khương (2017), “Đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế và thương mại quốc tế đến phát thải CO2 ở Việt Nam- Tiếp cận qua mô hình ARDL”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, số 238, pp.30-40.

11. Managi S., Hibiki A. and Tsurumi T. (2009), “Does trade openness improve environmental quality?”, Journal of Environmental Economics and Management, no.58, pp. 346-363.

12. McCarney G. and Adamowicz V., (2005), “The effects of trade liberalization on the environment: An empirical study”, presentation at the Canadian Agricultural Economics Society Annual Meeting, San Francisco, California, July 6-8, 2005.

13. Nguyễn Anh Tuấn (2021), “Các con số trong ‘Thống kê năng lượng Việt Nam 2019’ nói lên điều gì?”, Tạp chí Năng lượng Việt Nam, Trực tuyến tại https://nangluongvietnam.vn/cac-con-so-trong-thong-ke-nang-luong-viet- nam-2019-noi-len-dieu-gi-25953.html, truy cập ngày 10-3-2022.

14. Võ Văn Dứt và Nguyễn Thị Phương Nga (2015), “Ảnh hưởng của tham nhũng đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các quốc gia châu Á”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở TP.HCM, 10(3), pp.162-172.

15. Yandle B., Vijayaraghavan M. and Bhattarai M. (2002), “The Environmental Kuznets Curve: A Primer”, The Property and Environment Research Center Research Study, 2(1).

 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây